Cổng và tượng Vua Hàm Nghi năm 1975 - Ảnh: hamnghihue.com
Hai bài thơ nôm này nằm trong hồ sơ tập 7 Phông Nha kinh lược Bắc kỳ, kho lưu trữ Trung ương Hà Nội, ghi rõ: “Ngự bút tự trào quốc âm nhị thư ban Bắc kỳ chư thứ”. Nhắc lại rằng vào đêm mồng 4 rạng sáng mồng 5 tháng 7 năm 1885, ngay tại trung tâm kinh thành Huế đã xảy ra một sự biến lịch sử kịch liệt: lực lượng yêu nước chống Pháp trong triều đình do Tôn Thất Thuyết cầm đầu tấn công vào các căn cứ chiếm đóng của giặc Pháp ở hai bên bờ sông Hương là tòa khâm sứ và đồn Mang Cá. Cuộc tấn công thất bại, kinh thành bị chiếm, Tôn Thất Thuyết phải rước vua Hàm Nghi chạy ra Bắc. Để thoát khỏi bàn tay giặc và xây dựng cơ sở kháng chiến lâu dài về sau. Về Hàm Nghi, chúng ta biết rằng ông được đặt lên ngôi vua từ ngày 2-8-1884 sau khi ba vua Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc lần lượt bị phế bỏ vì có hành động thân Pháp. Ông sinh ngày 3-8-1871, lúc lên ngôi mới có 14 tuổi. Sau khi được Tôn Thất Thuyết đưa ra phía Bắc, ông đã ra Chiếu Cần Vương (13-7-1885), kêu gọi văn thân sĩ phu và nhân dân cả nước đánh giặc. Lời chiếu đã được sự hưởng ứng nhiệt liệt và mạnh mẽ trong toàn quốc, gây cho kẻ thù muôn vàn nguy khốn. Nhưng đến tháng 11-1888, có bọn tay sai dẫn đường giặc Pháp đã đột nhập căn cứ và bắt sống Hàm Nghi tại miền núi Quảng Bình, rồi đưa xuống tàu chở đi đày ở An-giê-ri (Bắc Phi). Hai bài thơ nôm mới sưu tầm được, nếu đích thực là của vua Hàm Nghi thì chỉ có thể được sáng tác vào giữa hai năm 1887-1888, trước ông bị bắt. Lúc này nhà vua đã 16-17 tuổi, và trải qua mấy năm trèo đèo lội suối gian khổ kháng chiến đã trưởng thành về tư tưởng, giờ đây đã trở nên một thanh niên có tinh thần yêu nước căm thù giặc và có ý thức về vai trò của mình trong phong trào, đối với nước, đối với dân. Cũng không loại trừ khả năng hai bài thơ trên do một người lấy danh nghĩa Hàm Nghi để làm, hiện tượng này rất phổ biến trong văn học. Trong khi chờ đợi xác minh thêm, chúng tôi căn cứ vào sự ghi chép theo tài liệu lưu trữ để giới thiệu với bạn đọc Tạp chí Sông Hương
Bài thứ nhất Ôi việc trên đời nghĩ cũng hay, Sơn hà xã tắc nắm trong tay Hai hàng mũ áo (1) mong mong Trước Bốn phía cày bừa nhớ nhớ nay (2) Tôn tổ vun trồng đà có tớ, Đất trời ngang dọc ngẫm từ đây Xoay vần con tạo xem chăng tá? Quét sạch tanh hôi có mặt này (3) Bài thứ hai Nhủ bảo quân dân cập lại quan Thứ cho tội trẫm đã muôn vàn Ngôi cao kịp tới liền lo nghĩ, Tuổi trẻ nhưng nay luôn thở than Vạch đất ra tay tề xã tắc Xin trời mở mặt với giang san Bốn phương đâu để theo dòng cũ Trung nịnh rồi ra sẽ liệu bàn. Đ.X.L - V.V.S. (8/8-84) ----------------- 1. Các quan lại trong triều 2. Nông dân. 3. Giặc Pháp xâm lược. |
TRẦN ĐÌNH SỬTôi có duyên làm quen với Trần Hoàng Phố đã hai chục năm rồi, kể từ ngày vào dạy chuyên đề thi pháp học ở khoa Văn Đại học Sư phạm Huế đầu những năm 80. Hồi ấy anh đã là giảng viên nhưng theo dõi chuyên đề của tổi rất đều, tôi biết anh rất quan tâm cái mới. Sau đó tôi lại tham gia Hội đồng chấm luận án tiến sĩ của anh, được biết thêm anh là một người đọc rộng, uyên bác.
TRẦN THUỲ MAI(Đọc tập thơ "Quê quán tôi xưa" của Trần Hoàng Phố, NXB Thuận Hoá - Huế 2002)
NGUYỄN KHẮC PHÊNhà văn Nguyễn Quang Hà, trong lời bạt cuốn tiểu thuyết mượn câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Cao Bá Quát (“Trường giang như kiếm lập thiên thanh”) làm nhan đề, đã xem đây là “những kỷ niệm đầy yêu thương suốt dọc đường chiến tranh” của mình.
VỌNG THẢO(Về tập sách "Vì người mà tôi làm như vậy" của Hà Khánh Linh – NXB Hội Nhà văn – 2002)
NGUYỄN THỊ GIANG CHIF.Kafka là một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỷ XX, một hiện tượng văn học rất phức tạp, có ảnh hưởng rộng lớn đối với tiến trình phát triển của văn học thế giới, đặc biệt là ở phương Tây.
YÊN CHÂU(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp: “Những lo toan năm tháng đời thường Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”
VỌNG THẢO... " Đôi trai gái đến nhót từ trong thau ra mỗi người một con cá ngậm ngang mồm, trút bỏ áo quần, trần truồng dắt tay nhau xuống nước. Hai con cá ấy là lễ vật dâng Thần Đầm. Chúng sẽ chứng kiến cái giờ phút linh thiêng hòa nhập làm một của đôi vợ chồng mới cưới, ngay trong lòng nước... Cuộc giao phối xong, đôi trai gái mới được há miệng. Hai chú cá liền bơi đi...".
VŨ NGỌC KHÁNH.(Đọc sách Phan Bội Châu- Toàn tập do Chương Thâu sưu tầm, biên soạn. Nhà xuất bản Thuận Hoá và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây- 2000)
VỌNG THẢO(Đọc “Quỷ trong trăng’ của Trần Thuỳ Mai)Đối với người cầm bút, trong những ý niệm thuần khiết nhất của trí tưởng tượng, mỗi người đều có những nhận thức và ám ảnh khác nhau. Riêng Trần Thuỳ Mai, ý niệm thuần khiết trong trí tưởng tượng của chị là một bến bờ xa vắng, nơi ẩn chứa những hạn cuộc huyễn hoặc và khát khao tận cùng trước giả, thật cuộc đời. Đó cũng là điều chị đã gửi gắm trong tập truyện mới: “Quỷ trong trăng” (NXB Trẻ - 2001), tác phẩm văn xuôi được giải tặng thưởng hàng năm của Liên hiệp Hội VHNT Thừa Thiên Huế.
NGUYỄN THỊ LÊ DUNGBao đời nay, thơ vẫn là một hằng số bí ẩn bảo lưu chất trẻ thơ trong tâm hồn con người. Nó gắn với đời sống tâm linh mà tâm linh thì không hề có tuổi, do vậy, nên dù ở chu kì sinh học nào, người ta cũng sống với thế giới thi ca bằng trái tim không đổi màu.
TẠ VĂN SỸĐọc tập thơ CÁT MẶN của LÊ KHÁNH MAI, NXB Hội nhà văn - Hà Nội 2001
LÊ THỊ MỸ ÝĐọc tập truyện ngắn "NGƯỜI ƠI" - Lê Thị Hoài - NXB Thuận Hoá 2001
HỒNG DIỆUVâng. Thơ của nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) viết ở Huế, trong đó có thơ viết về Huế và thơ viết về những nơi khác.
HÀ VĂN LƯỠNGBài viết này như là một nén nhang tưởng niệm nhà văn Aitmatov vừa qua đời ngày 11-6-2008)
UYÊN CHÂU(Nhân đọc “Mùa lá chín” của Hồ Đắc Thiếu Anh)Những ai từng tha phương cầu thực chắc chắn sẽ thông cảm với nỗi nhớ quê hương của Hồ Đắc Thiếu Anh. Hình như nỗi nhớ ấy lúc nào cũng canh cánh bên lòng, không dứt ra được. Dẫu là một làn gió mỏng lướt qua cũng đủ rung lên sợi tơ lòng: Nghe hương gió thổi ngoài thềm / Trái tim rớm lệ trở mình nhói đau (Đêm nghiêng).
LGT:Rainer Maria Rilke (1875 – 1926) người Áo, sinh tại Praha, đã theo học tại Praha, Muenchen và Berlin triết học, nghệ thuật và văn chương, nhưng không hoàn tất. Từ 1897 ông phiêu lưu qua nhiều nước Âu châu: Nga, Worpswede (Ðức) (1900), Paris (1903) và những nước khác trong và sau thời thế chiến thư nhất (Thụy sĩ, Ý…). Ông mất tại dưỡng viện Val-Mont vì bệnh hoại huyết.
Giới thiệu tập thơ đầu tiên của anh Khúc ru tình nhà thơ Ngô Minh viết: “Toàn từng làm thơ đăng báo từ trước năm 1975. Hơn 20 năm sau Toàn mới in tập thơ đầu tay là cẩn trọng và trân trọng thơ lắm lắm”.
1. Trước khi có cuộc “Đối thoại với Cánh đồng bất tận” trên báo Tuổi trẻ tháng 4. 2006, Nguyễn Ngọc Tư đã được bạn đọc biết đến với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt, giải Nhất trong cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi XX (lần 2) năm 2000, được tặng thưởng dành cho tác giả trẻ của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2000, giải B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001…
Nhân ngày 9/5 chiến thắng phát xít Đức.
...Đưa người ta không đưa qua sôngSao có tiếng sóng ở trong lòng?...