Hai bài báo xuân viết về Thanh Tịnh

11:05 27/04/2009
HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

Nhà thơ Thanh Tịnh

Nhà thơ Thanh Tịnh quê gốc ở Gio Linh - Quảng Trị, sinh tại Gia Lạc thành phố Huế ngày 12.12.1919. Mất tại Hà Nội ngày 17.7.1988, phần mộ đặt trên núi Thiên Thai, phía Tây thành phố nơi ông sinh ra.
Bài viết dưới đây chỉ đề cập tới hai bài báo của hai nhà phê bình viết về Thanh Tịnh nhân ngày xuân, hoàn toàn không có ý phê phán quan điểm, kiến thức hay trình độ lý luận văn học của Vương Trí Nhàn và Ngô Vĩnh Bình.

Trước Cách mạng tháng Tám, Thanh Tịnh đã có thơ đăng trên các báo Phong Hoá, Ngày nay, Hà Nội báo, Tiểu thuyết thứ năm, Thanh Nghị. Ngoài ra, ông còn được Hoài Thanh đưa vào Thi nhân Việt Nam. Sau năm 1945, ông từng giữ chức Tổng thư ký Hội Văn hoá cứu quốc Trung Bộ. Ông cũng từng làm chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ quân đội, là hội viên sáng lập và uỷ viên ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khoá I và II.

Vương Trí Nhàn lấy tên một truyện ngắn của Thanh Tịnh, truyện Ngậm ngải tìm trầm viết từ năm 1943 để làm tiêu đề và nội dung bài báo của mình. Trầm rất quí và hiếm, chỉ có trên thân cây gió mọc lâu đời trong rừng sâu, toả hương thơm ngát, dùng để đốt khi thờ tự cúng bái. Những bậc vương giả, giàu có xưa kia mới dám dùng trầm. Trong lịch sử Trung Quốc, chỉ một ông vua Đường Minh Hoàng mới chơi ngông xây Trầm Hương đình dành riêng cho Dương Quý Phi. Ngải là một loại cây cao chừng một mét, có củ màu vàng giống củ riềng, lá giống lá cây nghệ. Củ ngải được bào chế thành một thứ thuốc, người đi tìm trầm ngậm mới có sức đi trong rừng thẳm từ tháng hai đến tháng sáu âm lịch hàng năm để tìm trầm. Giá trị một thanh trầm có thể dư thừa tiền để nuôi sống một đời người.

Từ bài báo, Vương trí Nhàn vân vi để hiểu cách tồn tại độc đáo của Thanh Tịnh trong văn học. Cách tồn tại độc đáo ấy theo tác giả là "không có không ai chết", nhưng "cũng dễ làm cho đời sống mất hết ý vị'". Nghe thì dường như khách quan, vì có ai trên đời này lại quan trọng đến nỗi không có họ thì người khác phải chết đâu. Đằng sau cái khách quan ấy, tác giả viết rất dài về cuộc đời và sự nghiệp văn học của Thanh Tịnh thời kỳ sau năm 1954, tại tạp chí Văn nghệ quân đội. Thời ấy Thanh Tịnh xa vợ con, xa quê hương, phải sống độc thân trong cái "lâu đài" văn học thâm nghiêm số 4 Lý Nam Đế - Hà Nội, vì thế mà bài báo của Vương Trí Nhàn đại để có vô số đoạn như thế này "Chẳng ai có lỗi trong bất hạnh này của Thanh Tịnh cả - chẳng qua đất nước chia cắt, ông lập gia đình sớm...", "...Nghĩ tới một người xa gia đình như Thanh Tịnh ai cũng hiểu ngay là: "Nhiều khi rỗi rãi mà không biết làm gì". "Một bên là lớp nhà văn mới trưởng thành từ kháng chiến lòng đầy tự tin, và cái háo hức chủ yếu, là háo hức làm nên một nền văn học trước đây chưa từng có, còn bên kia là Thanh Tịnh dẫu sao cũng còn là hơi hướng tiền chiến nghĩa là thuộc về quá khứ bấy giờ người ta đang muốn chôn vùi. Và thứ văn chương như Quê mẹ, dầu sao cũng là thứ loại văn hắt hiu buồn tẻ của một thời đã xa lắm rồi, một người đã viết nên một thứ văn như thế, làm sao có thể bắt ngay vào cái nhịp sống mới của giới trẻ?". "Tức ông đã sớm trở thành một cựu chiến binh ngay trong thời gian tại ngũ. Có cái rỗi rãi của người được chiều, có cái tuỳ nghi của người không bị ràng buộc, bởi vậy lại dễ trở nên lạc lõng". "... Ông sống như sống cho xong, buông thả, vui chơi qua ngày, đến đâu thì đến.", "không trù tính, định liệu cũng không ham muốn, ông nhìn thẳng về phía trước mà hoá ra chẳng nhìn gì cả. Đến cả bước chân của ông cũng không ai nghe tiếng nữa. Chỉ có tiếng thở dài của ông là có thật".

Đọc các đoạn trên, chúng ta chỉ còn thấy Thanh Tịnh là một cái bóng mờ nhạt, thậm chí tẻ nhạt vô hồn, và một chút thương cảm của Vương Trí Nhàn đối với Thanh Tịnh, bởi lẽ hàng ngày lặp đi lặp lại cứ thấy ông "lầm lũi xách xô nước, từ bể chứa dưới nhà lên gác hai" vào buổi sáng, "cái cầu thang mênh mông mà bóng ông không bao giờ lấp kín" vào buổi chiều tối. Tác giả vẽ ra chân dung Thanh Tịnh như một Lã Vọng già nua với xâu cá trên tay. Một Thanh Tịnh như thế, tại sao chợt xô về trong tôi những câu thơ của ông mà tôi thuộc từ ngày còn đi học.
Mười một năm trời mang Huế theo
...
Tôi gặp bao người nhớ Huế xa
Đèn khuya thức mãi chí xông pha
...
Có bao người Huế không về nữa
Gửi đá ven rừng chép chiến công
Có mồ liệt sĩ nâng lòng đất
Buồm phá Tam Giang gió thổi lồng.


Rõ ràng Thanh Tịnh cũng như bao nhà văn, nhà thơ khác, đã mang vào thơ sự phức tạp của đời sống thế kỷ thứ hai mươi, cùng những bi kịch của đất nước bị chia cắt. Có thể nói Huế là một xứ thơ, xứ tâm hồn, nếu không thế thì tại sao đã tạo nên một Thanh Tịnh "Nặng trĩu trăm năm bóng cổ thành" ? Văn học phải có tính thừa kế của nó, không phải ngẫu nhiên người ta "muốn chôn vùi" nền thi ca tiền chiến, mà theo tôi tình cảm của cả dân tộc lúc "bấy giờ" cần phải cứng rắn để tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chứ không thể có phần thiên về sướt mướt như thi ca thời trước năm 1945 được. Đương nhiên thơ văn của Thanh Tịnh là nguyên bản cuộc đời ông. Không phải Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên... là những nhà thơ lớn, những nhà thơ cách mạng cũng bắt nguồn từ trào lưu thơ mới tiền chiến đó sao?

Ai cũng biết Thanh Tịnh là một nhà thơ thuộc loại có nhiều giai thoại, nhưng chẳng lẽ vì thế mà người viết lại nấu món súp không có muối như thế này "Tôi nhớ những ngày mùa rét, Thanh Tịnh hay bận ra ngoài một cái áo dạ màu cổ vịt, một màu rất chua, và chói hẳn lên giữa đám người nâu sồng hoặc toàn quần áo màu  xám. Đấy cũng là một cách để tỏ rõ cái khác biệt với chung quanh chăng?". "Vả chăng cái con người thật của chính mình, thì mỗi người làm sao dấu được!", "Ngoài mùi cao sao vàng hắc hắc - cái mùi phổ biến của những người già - riêng Thanh Tịnh tuổi sáu mươi hồi ấy lại thường còn hay bốc lên mùi nước hoa. Chắc chắn đó là thứ nước hoa thật rẻ...", "Cụ phải làm thế vì già rồi, lại dân nghiện cũ, lâu không tắm, không đổ nước hoa lên quần áo thì còn dám đi đâu nữa?!".

Theo tôi, dù tác giả bài báo có xét nét, xoi moi chế diễu đi chăng nữa, thì những chuyện riêng như vậy cũng vẫn không nên nói, vì đó là những moi móc tầm phào, vớ vẩn, một cách chế diễu cũ càng "Bới bèo ra bọ".
Tôi không hiểu tại sao Vương Trí Nhàn còn dị ứng cả cái thú vui sưu tầm đồ vật lịch sử của Thanh Tịnh "Nghèo thế, Thanh Tịnh của chúng tôi lấy đâu ra tiền để mua cổ vật? Mà cũng buồn thế, cô độc thế một người ít nghị lực như Thanh Tịnh lấy đâu sức lực để mang lại cho bộ sưu tập của mình một vẻ hoàn thiện dù chỉ là trên phương diện công phu thuần tuý? Chẳng qua buồn tình quá, ông nhặt nhạnh một ít đồ cũ, xếp cho ra bộ trong luc không ai biết chơi thì cách chơi của ông đã là độc đáo thế thôi". "Trò chơi hơi buồn! Nhưng đó là trò chơi duy nhất, một ông già tạo được cho mình, và cũng là trò chơi độc ác, dù không được đẩy đến cùng".

Tại sao vậy, tại sao đó là trò chơi độc ác? Mạnh Tử có câu "Vạn vật đều ở nơi ta, chỉ cần quay về thú vui với lòng mình là đủ", "âu đó cũng là cái cách tồn tại cá thể trong tập thể của Thanh Tịnh, có hại ai đâu? Huống hồ ông sinh ra, lớn lên ở xứ Huế, nơi có dòng sông Hương với những cơn mưa sũng buồn, nơi có những đêm trăng với hoa cau rụng trắng , hương cau ngào ngạt... Một người luôn mang Huế theo, chất trong hồn nỗi sầu vạn cổ, xa vợ con, dâu bể đời người như vậy kể cũng đáng để chúng ta thán phục rồi.

Theo Vương Trí Nhàn, tất thảy các dấu mốc trong cuộc đời Thanh Tịnh đều hoàn toàn bị động, do hoàn cảnh tạo nên, ngẫu nhiên cứ tựa như con quay búng sẵn trên trời, từ việc Thanh Tịnh lên Việt Bắc tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp, đến việc ông vào khu bốn hoạt động văn nghệ, làm thơ viết báo "Thanh Tịnh là thế, là cuốn theo chiều gió, là ngọn cỏ gió đùa...". Đành rằng các sự kiện lịch sử có xô đẩy, nhưng tôi đoan chắc rằng ông chủ động, tự nguyện hiến dâng tuổi trẻ của mình cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Phải chăng người viết định làm cái việc "lấy thúng úp voi"? khi cho rằng "Ông phải giữ tiếng cho mình và mọi người, ví cái tiếng của ông quá lớn. Xung quanh và chính ông đã ép ông thành một thứ phượng hoàng nhồi rơm nhồi trấu rồi treo trên tường, ông phải giữ lấy cái vai đã có".

"Bụt chùa nhà không thiêng" chăng? tôi đồng ý "Viết văn là một nghề như mọi nghề khác", nhưng nghề văn, nhất là người làm công tác giới thiệu tác giả tác phẩm, phê bình văn học phải cẩn trọng khi đánh giá nhận định, "lời nói gói vàng".
Ngô Vĩnh Bình trong bài báo của mình lại viết về Thanh Tịnh như thế này "... Được ở gần ông ngót chục năm, tôi biết ông là một tỷ phú, là một nhà giàu. Không phải ngẫu nhiên mà anh em báo chí, văn nghệ ở "phố nhà binh" gọi ông là "pho từ điển sống" là bậc "huynh trưởng". Ông không chỉ viết báo Tết, làm báo Tết giỏi mà còn chỉ cho nhiều nhà báo trẻ cách viết báo, làm báo Xuân một cách rất cụ thể, như thầy trò, như bầu bạn, như đồng nghiệp". "Thanh Tịnh là vậy, làm báo, viết báo, kể cả báo Xuân, báo Tết cáicũng cứ nhẹ tênh tênh, nhưng để theo ông, học ông thật chẳng dễ chút nào. Đôi khi chỉ là để hiểu ý ông thôi mà mươi năm, mà cả đời người vẫn chưa làm được".

Quả thật, nếu đúng thế thì cho dù Thanh Tịnh đã "Ngậm ngải tìm trầm", vẫn chắc rằng ông cũng có dư thừa hương trầm trong cuộc đời hoạt động văn học nghệ thuật đầy khó khăn của ông.
Ngô Vĩnh Bình vẫn thường khiêm tốn tự nhủ, người làm phê bình văn học, trước hết phải rèn luyện các đức tính: nhạy cảm, trung thực và nhân ái. Điều ấy quí giá vô ngần.

H.A.M
(
168/02-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH             Phóng sự điều tra

  • THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.

  • Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.

  • Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.

  • Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.

  • TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.

  • AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.

  • Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)

  • HOÀNG NGỌC HIẾN    (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.

  • THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.

  • HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.

  • LÊ ĐẠT                Đường bụi trang lịch cũ                 ếp ếp đàn thời gian                                           L.Đ

  • HOÀNG NGỌC HIẾN             (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).

  • VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.

  • NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)

  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.

  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...