Hà Nội - từ trang viết đầu tay năm ấy…

09:29 23/02/2010
NGUYỄN KHẮC PHÊTác phẩm đầu tay của tôi - tập ký sự “Vì sự sống con đường” (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1968) viết về những đồng đội của tôi trong cuộc chiến đấu anh hùng bảo vệ tuyến đường 12A lên đèo Mụ Dạ, một đoạn đường trọng yếu trong hệ thống đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1965-1966, được xuất bản năm 1968, nhưng bài viết đầu tiên của tôi được in trên báo chí khi tôi vừa tròn 20 tuổi và đang học tại Hà Nội.

Đó là bài ký “Những người đi tiên phong” đăng trên báo “Văn học” năm 1959, viết về những người bạn phải bỏ dở khoá học ở Trường Giao thông để sung vào đội quân mở tuyền đường lịch sử “559”.
Kỷ niệm tròn nửa thế kỷ vào đời, lớp Khoá 8 Trường Giao thông chúng tôi vừa tổ chức gặp mặt tại Hà Nội. 50 năm đã qua, một số bạn đã mất - trong đó người đã hy sinh trên những tuyến đường ra mặt trận, hơn hai chục anh chị em về dự cuộc gặp đều ở lớp tuổi “cổ lai hy”. Hà Nội đã đổi khác quá nhiều, không thể nhận ra dấu tích nào của khu Cầu Giấy quanh ga tàu điện “ngày xưa” - nơi có Trường Giao thông với những dãy nhà cấp 4 xập xệ. Cho dù vậy, đi trên con đường kín đặc xe cộ ngang qua nơi mình đã ăn học mấy năm, những kỷ niệm, những hình ảnh thời trai trẻ lại như hiển hiện trước mắt…

Còn nhớ, năm 1969, lúc vừa tròn 30 tuổi, sau khi in tập ký sự “Vì sự sống con đường” tôi được ra Hà Nội dự lớp bồi dưỡng những người viết văn trẻ và được “đặc cách” mời tham dự Hội nghị “Sáng tác văn học về đề tài công nhân” lần đầu tiên do Tổng Công đoàn và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức tại Quảng Ninh. Gọi là “đặc cách”, vì bên cạnh những lão tướng trên mặt trận này như Nguyên Hồng, Tô Hoài, Võ Huy Tâm, Huy Phương..., tôi là anh lính mới tò te. Tại Hội nghị này, trong bản tham luận “Nguồn vô tận của văn thơ”, tôi đã nhắc đến những con người trên những công trình xây dựng cầu đường và những tuyến đường ra mặt trận đã gợi cảm hứng sáng tác cho tôi, nhưng chính những con đường Hà Nội là nơi đã đưa tôi đến ngưỡng cửa văn thơ. Đã hơn nửa thế kỷ qua, nhưng bây giờ nhiều đêm tỉnh giấc hoặc khi nghe những bài hát về Hà Nội, tôi lại tưởng như thấy hiện ra trước mắt mình những con đường leng keng chuông tàu điện từ Hồ Hoàn Kiếm tỏa đi các phố phường; những “con đường tơ lụa” Hàng Ngang, Hàng Đào, những phố Hàng Gai, Hàng Bạc, Hàng Bồ... san sát cửa hiệu buôn bán sầm uất, với các cô chủ, bà chủ mặt hoa da phấn xinh đẹp... Hồi đó, hòa bình vừa lập lại, tôi ra Hà Nội kiếm sống, ngày ngày đeo chiếc xắc đựng đầy sách đi bán dạo khắp phố phường Hà Nội. Những cuốn sách viết về chiến thắng Điện Biên Phủ như “Người người lớp lớp” của Trần Dần, sách của Nhà “Xây dựng”... ngày đó được nhiều bạn đọc tìm mua. Ngày bán sách, tối đọc sách và sức hấp dẫn từ những trang sách đã khiến tôi cầm bút.

Về sau, khi đã trở thành người cán bộ kỹ thuật trên các công trường xa xôi và nhất là những năm chiến đấu trên tuyến lửa Quảng Bình, mỗi lần có dịp về Hà Nội, tôi lại được khích lệ, được tiếp sức đi tiếp trên đường văn, được sưởi ấm tâm hồn dưới những mái nhà thân thuộc. Nhiều anh chị em của tôi và mẹ tôi đã lần lượt trở thành cư dân Thủ đô. Hà Nội còn có biết bao ngôi nhà gắn với những kỷ niệm vào đời của tôi. Căn nhà trong ngõ phố Lý Thái Tổ, nơi lần đầu tôi biết vị chát đắng của miếng cơm kẻ làm thuê; ngôi trường “Điện Biên” ở phố Quán Sứ với những giờ học văn thú vị với thầy Trần Lê Văn; rồi Nhà hát Lớn và Nhà hát Nhân dân san sát những hàng ghế gỗ giữa “quảng trường” không mái che với những đêm diễn “Lu-ba”, “Con nai đen”... và các rạp chiếu bóng Kinh Đô, Long Biên, Đại Đồng, Hòa Bình... thường đông nghịt người, trong đó, loại khán giả “khát phim” vì sống ở những nơi xa xôi như tôi thì có ngày xem tới 2-3 suất. Cũng không thể quên Nhà sách Tràng Tiền như là một điểm sáng của Thủ đô, người có học về Hà Nội hẳn đều ghé lại, dù không mua cũng để nhìn ngắm những tác phẩm mới - những giá trị văn hóa vừa được sáng tạo nên, trưng bày trang trọng trong các tủ kính. Lại còn những ngôi nhà của một số nhà văn tên tuổi như Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Khải, Nguyễn Thành Long, Kim Lân, Nguyễn Xuân Sanh... mà tôi có dịp đến không chỉ một đôi lần, do các ông ưu ái một cây bút trẻ đang ở nơi đầu sóng ngọn gió, giúp đọc, hướng dẫn, sữa chữa những sáng tác đầu tay. Cũng có khi vì cơ duyên may mắn: nhà của các ông rất gần chỗ cư ngụ của các anh chị tôi, thậm chí, hồi tháng 5/1967, khi tôi được ra Hà Nội hoàn thành tập ký sự “Vì sự sống con đường”, mỗi lúc máy bay Mỹ gầm rú lao đến oanh tạc, tôi mở cửa căn phòng nhà chị tôi ở phố Trần Quốc Toản để ra hầm trú ẩn là lại gặp thân hình cao gầy của nhà phê bình Hoài Thanh. Còn khi viết tiểu thuyết “Đường qua làng Hạ”, bác Nguyễn Công Hoan chỉ cho cả cách đặt dấu “phẩy”; tôi viết: “Xa nữa là Trường Sơn”, bác chữa lại: “Xa nữa, Trường Sơn”; thay chữ là bằng dấu phẩy, câu văn ngắn gọn mà có sức gợi cảm hơn nhiều. Nhà văn Nguyễn Khải, khi đọc bản thảo tiểu thuyết “Đường giáp mặt trận”, nghe tôi nói dự định sẽ “cho” nhân vật Loan hy sinh trong trận chiến đấu mở đầu tập tiếp theo (tiểu thuyết “Chỗ đứng người kỹ sư”) đã bảo tôi: “Dựng được một nhân vật như cô Loan không dễ đâu, đừng vội để cô ta chết”; quả nhiên, cô Loan đã thành một nhân vật sinh động đi tới trang cuối tiểu thuyết “Chỗ đứng người kỹ sư”...

(Trang đầu sách của nhà văn Nguyễn Tuân tặng NV Nguyễn Khắc Phê năm con cọp)
Tất cả đã góp phần nuôi dưỡng, kích thích và gợi cảm hứng sáng tác cho tôi. Tuy chưa có tác phẩm nào viết riêng về Hà Nội, nhưng hình ảnh Hà Nội đã hiện ra sinh động trên nhiều trang sách đã xuất bản của tôi. Đó là tình cảm thiêng liêng của những chiến sĩ thanh niên xung phong, công nhân trên đường đèo Mụ Dạ giữa đêm khuya, bên những đoàn xe tiến ra mặt trận, lòng hướng về Hà Nội, nơi Bác Hồ vừa bắt tay giao nhiệm vụ lịch sử giữ con đường huyết mạch của Tổ quốc cho đồng chí Bí thư Đảng ủy công trường 12A tại Đại hội “Bảo đảm giao thông” đầu tiên hồi năm 1966. (Ký sự “Vì sự sống con đường”). Đó là hình ảnh những con người Hà Nội như kỹ sư Sơn, công trình sư Tâm, cô An giám sát viên, cô Loan y tá... giữa cuộc chiến đấu quyết liệt trước bom đạn kẻ thù và cả trước những kẻ cơ hội, giả dối, trước những phút yếu hèn của chính bản thân mình, đã trở nên “thép đã tôi”, đã thành những nhân vật điển hình trong tiểu thuyết bộ đôi “Đường giáp mặt trận” và “Chỗ đứng người kỹ sư”. Trong tiểu thuyết “Những cánh cửa đã mở” (1987) hay tiểu thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” (sắp xuất bản), những cuộc “đụng đầu” giữa các nhân vật có nhiều ý nghĩa, có sức nặng tư tưởng, phần lớn đều diễn ra tại Hà Nội, chính vì từ vị thế của Thủ đô, các nhân vật cũng như tác giả - cho dù ở “tỉnh lẻ” hoặc từ miền đất heo hút nào về - đều được “chạm” đến những vấn đề lớn của thời cuộc, những niềm vui và cả những nỗi buồn không phải của riêng ai... 

Hà Nội trong tôi và có lẽ trong chúng ta không chỉ là những thứ có thể kể ra được. Nơi hồn thiêng sông núi cả ngàn năm tụ về nối liền với mỗi trái tim Việt bằng những “con đường” vô hình mà nhạy cảm vô cùng. Chả thế mà những mưu toan, những công trình làm “ô nhiễm” vùng đất thiêng quanh Hồ Hoàn Kiếm như ngôi nhà “hàm cá mập” hồi nào lập tức bị dư luận cả nước lên án. Và ngược lại, những giá trị văn hoá của Hà Nội có sức lan toả, vang vọng đến mọi miền quê trên đất Việt. Tôi bỗng nhớ đến cô An, cô kỹ thuật viên trẻ người Hà Nội, khi vui cũng như lúc buồn, thường nhẩm hát bài “Người Hà Nội” của Nguyễn Đình Thi giữa rừng Trường Sơn những năm khói lửa: “Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây. Đây lắng hồn núi sông ngàn năm. Đây Thăng Long, đây Đông Đô, đây Hà Nội… Hà Nội mến yêu…”

Một chi tiết nhỏ, chỉ là một khoảnh khắc trong ngàn năm; nhưng lịch sử ngàn năm Thăng Long-Hà Nội  cũng hợp thành từ những khoảnh khắc. Có khoảnh khắc hùng tráng như những lần giặc phương Bắc cuốn cờ tháo chạy, như giây phút Quảng trường Ba Đình truyền đi giọng nói ấm áp “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”, như đêm “Điện Biên Phủ Trên Không” B.52 Mỹ cháy sáng bầu trời Hà Nội… Và cũng có khoảnh khắc thầm lặng trong mỗi căn nhà của những bà mẹ vừa tiễn con ra trận, của hoạ sĩ Tô Ngọc Vân, Bùi Xuân Phái…trước tấm “toan” vừa căng lên khung, của Nguyễn Tuân, Tô Hoài… bên trang bản thảo đầy kín những con chữ thấm đậm hương sắc Hà Nội…

Trở lại Hà Nội sau nửa thế kỷ vào đời cùng với trang viết đầu tay, dù “Hà Nội mến yêu” luôn ở trong trái tim mình, dù mái tóc đã pha sương, mắt mờ, chân chậm, tôi vẫn thích “cưỡi” hon-đa chen chúc cùng thiên hạ. Để tìm về những kỷ niệm xưa. Để “thấm” cái bộn bề của Hà Nội hôm nay. Cuộc sống luôn tiến về phía trước, những con đường Hà Nội hướng ra bốn phương luôn nêm chặt xe cộ, khói bụi mù trời. “Dấu xưa” chẳng còn bao nhiêu, nhưng những kỷ niệm cũ, những con đường cũ từng dẫn tôi đến ngưỡng cửa văn thơ vẫn sống mãi trong hồn tôi và gieo vào lòng tôi niềm hy vọng mới. Hà Nội sẽ có thêm nhiều khoảnh khắc đẹp, ở đó, lương tâm và trí tuệ thăng hoa, vượt lên những khối bê tông cao ngất đang mọc lên ngày càng nhiều ở Thủ đô…

N.K.P
(252/02-2010)



 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.

  • PHƯỚC GIANGTrung tâm Văn hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục vừa tuyển chọn và giới thiệu 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX.Việc này thực hiện trong hai năm, theo ông Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân thì kết quả thật mỹ mãn: hơn 10.000 phiếu bầu, kết quả cuối cùng “không ai bị bỏ sót” và “trong 100 bài đã được chọn chỉ chênh với các danh sách khác khoảng 5-7 bài”.

  • NHỤY NGUYÊN

    Truyện ngắn của Nguyên Quân trong Vòng tay tượng trắng (Nxb. Văn Học, 2006) khá mộc mạc ở cả đề tài và lối viết, nhưng cũng nhờ cái mộc mạc đó đã hút được nguồn nguồn mạch sống.

  • QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.

  • NHỤY NGUYÊN

    (Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…

  • BÍCH THU(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra  của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.

  • HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.

  • VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!

  • MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.

  • DUNG THÙYĐây là tập thơ đầu tay của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào do NXB Đà Nẵng ấn hành với cảm xúc tròn đầy và một tâm hồn nồng ấm. Là một cây bút trẻ đang độ sung sức, chị có nhiều thơ và truyện ngắn đăng trên các báo, tạp chí và Ngày không trở lại gói ghém những niềm riêng.

  • LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.

  • FRANCOIS BUSNELKiran Desai là nữ văn sĩ người Ấn Độ. Cô sinh năm 1971 tại Dehli. Là con gái của nữ tiểu thuyết gia Anita Desai. Kiran Desai lớn lên và học tiểu học ở Dehli đến năm 14 tuổi. Sau đó, cô cùng mẹ sang Anh Quốc, rồi Hoa Kỳ, học trung học ở tiểu bang Massachussettes. Cô theo học lớp viết văn ở Virginie và sau đó học Đại học Columbia ở NewYork.

  • TRẦN HUYỀN SÂM Một mùa đông ở Stockholm của Agneta Pleijel là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, tiêu biểu cho tính chất “đả phá thể loại” của tiểu thuyết hiện nay. Tác phẩm dung nạp nhiều đặc tính của tiểu thuyết Châu Âu hậu hiện đại: Phép giản lược tối thiểu, lối kể chuyện tung hứng, thủ pháp lạ hoá hình thức văn bản tác phẩm, đặc biệt là kiểu tự thuật “đánh tráo” chủ thể trần thuật.

  • HỒ THẾ HÀSerenade của Peter Kihlgard là một truyện ngắn có cấu trúc hiện đại. Trước hết là ở nghệ thuật ngôn từ và điểm nhìn văn bản.

  • BỬU NAM Hình thức lạ lùng gây tò mòTrước hết về mặt hình thức, tiểu thuyết khêu gợi sự tò mò ở người đọc với cách bố trí các tiêu đề in hoa, dày đặc đến hàng trăm suốt tác phẩm, xen lẫn các tiêu đề bằng tiếng Anh “I have been calling for more than an hour... But It's me”...

  • NHỤY NGUYÊN

    Sự đặc biệt của dòng thơ hậu chiến là luôn luôn khuấy động trong cái mênh mông vô chừng tưởng đã lắng xuống những vỉa quặng lấp lánh sau 30 năm đằng đẵng.

  • PHẠM QUÝ VINH Sau khi lên nắm chính quyền ở miền Nam Việt Nam, Ngô Đình Diệm đã thi hành một chính sách đối nội hết sức phản động. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã sử dụng nhiều thủ đoạn nham hiểm nhằm khủng bố những người kháng chiến, những người yêu nước.