Giới thiệu chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế - Nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch

09:52 06/10/2009
...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

Nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch

Nguyễn Khắc Thạch sinh 1948, quê ở Phúc Thành, Yên Thành, Nghệ An. Anh từng làm nhiều việc: ở mướn, cày ruộng, thợ rèn, công chức... Anh từng ở nhiều nơi: Nghệ An, Hà Tây, Quảng Bình, Huế... Anh từng học nhiều trường: Kinh tế kế hoạch, Đại học Báo chí, Viết văn Nguyễn Du... Anh từng giữ nhiều chức vụ: Ủy viên BCH Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, ủy viên BCH Hội Nhà báo Thừa Thiên Hue. Tổng thư ký Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, Phó Chủ tịch Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương...

Anh cũng từng nhận nhiều giải thưởng văn học: Giải thơ hay Tạp chí Cửa Việt (1991). Giải A, giải Cố đô Huế lần thứ nhất (1987 - 1992). Giải hàng năm Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế (1993). Giải B, giải Cố đô Huế lần thứ hai (1992 - 1997). Giải hàng năm Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế (2002). Giải B, giải Cố đô Huế lần thứ ba (1998 - 200).

Nguyễn Khắc Thạch tâm sự: Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt. Anh đã xuất bản ba tập thơ: Dòng sông một bờ (1989); Nơi ta về (1993); Mưa hai mặt (2002) và một tập tiểu luận: Nguyễn Khắc Thạch đang tồn tại bằng một cuộc sống nháp (2009).

Thơ Nguyễn Khắc Thạch thường rất ngắn, giàu chất triết lý, suy tư, chiêm nghiệm. Anh kiệm lời, đôi bài chỉ vài ba câu nhưng ẩn chứa rất nhiều tầng nghĩa. Chẳng hạn như: Mở lòng chào cơm áo/ Ôm lòng buốt ngọc châu/ Mắt chiều vô tôn giáo/ Nhắm linh hồn vào đâu (Tứ thơ); Bên thềm hoang/ Thiếu phụ/ Thoát y nằm/ Ngọn nến cháy/ Sau vầng trăng khuyết (Thiền)... Bài Dòng sông một bờ là một trong những bài thơ được nhiều người nhắc nhở: Có một dòng sông mang tên em/ dòng sông anh tự đặt/ xin mùa thu chiếc lá làm thuyền/ Có một dòng sông trôi vào lãng quên/ nước trong như nước mắt/ điều chưa đến mà sao thấy mất/ Có một dòng sông chỉ có một bờ/ phía bờ kia quay mặt/ dòng sông anh không qua được bao giờ…

Nguyễn Khắc Thạch viết tiểu luận cũng hết sức ngắn gọn, hàm súc với những nhận xét khá sắc sảo và mới mẻ. Cảm nghĩ về thơ hôm nay, Huế thơ và thơ Huế, Nàng thơ và cuộc sống... là những bài viết gây được sự chú ý của anh.

MAI VĂN HOAN giới thiệu



NGUYỄN KHẮC THẠCH


Cảm xúc mùa thu


như gặp lại người quen cũ
mùa thu ơi
gió vẫn vô tình đùa với lá rơi
với những buồn đau hoang dại
vớt nỗi niềm thời nhớ quên dễ dãi

thời ấy xa rồi
thời cái bóng san đôi
thời cái khóc cái cười không tính trước
mùa thu ơi
ta nhớ đến cằn khô đáy mắt

mùa thu còn trở lại
năm tháng đời người thì mãi mãi ra đi...


Hiện thực


anh lại phải ra rìa
nơi sấp ngửa những trò chơi mâm cỗ
tấm áo mượn chùa chân thật hóa thầy tu

thời hương khói thơm mùi điện tử
mọi lựa chọn ngọt ngào trên kích thước giác quan
anh bị chém bằng lưỡi rìu ngôn ngữ

những đổ vỡ hư danh như hoàng hôn bầm dập đáy chiều
bức tranh món ăn không no được bụng
hiện thực cục cằn như kẻ đói yêu...


Thông cảm


đêm lại về như dáng cũ già nua
ngọn đèn cháy
rơi
chiếc mặt nạ hài hước
sự thật trở nên tàn nhẫn hơn

và đâu đó cơn khát thèm xác thịt
có thể cắn rách màng trinh tôn giáo

bao giờ con người cũng là một thực tại kép
ước vọng thì đầy nhớ tiếc thì vơi

em sống giữa kì gian khảm khắc
trái tim đèn lồng
thắp bằng máu
so đêm...


Trả giá


khi đồng tiền lên ngôi mục đích
thì bàn thờ chỉ là phương tiện
quẫn bố mẹ nghèo nỗi con cái
                                     cô khinh

khi niềm tin ta đã đóng đinh
thì cây thánh giá kia
cần chi phơi hình Chúa

...
sự thật là thanh gươm lành trong vỏ
nhưng rút ra rồi... nó đau đớn biết bao!


Nơi ấy


anh đã nốc ao nơi đọ chén bốc đồng
nôn lộn mề gà mọi thứ...
kềnh cuộc chơi vô ngã miền ruồi

trôi nổi hai bờ hiện sinh mộng mị
anh được tắm hơi da thịt nữ tu hành
thơm miền cô đơn cổ kính

em tin chi lời hiềm khích
nước mắt làm sao thành cơn lũ
anh sẽ bước qua nơi ấy và ruồi

(247/09-09)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)