Ở đây Lê Huỳnh Lâm không quan tâm tra hỏi hay tìm cách định nghĩa thơ ca. Anh cũng không màng gọt dũa ngôn từ, nhịp điệu cho vừa với cảm xúc. Vì rằng cảm xúc anh đem đến cho người đọc thật mãnh liệt và tinh khôi. Có lẽ, nỗ lực của anh chính là muốn vượt qua những lối mòn đang đẩy nghệ thuật quẩn quanh trong khu rừng của sự mỹ miều nhưng trống rỗng. Tìm một cách biểu hiện khác, một tiếng nói khác quả là điều khó khăn, và đôi khi được xem là không hiểu nổi (!). Nhưng nếu không đi một mình, nói tiếng nói của mình ắt suốt đời sẽ bị cầm tù trong khu rừng nghệ thuật kia. Hãy nghe niềm trăn trở của anh: Tiếng mõ khuya hay tiếng người gõ cửa Lời cầu kinh hay bài ca trốn chạy Ký ức của bao đời trỗi dậy Từng mảnh thần tượng vỡ rơi đầy Buồn thay! Nếu như mỗi bước ra đi đều như giẫm phải mảnh vỡ kia. Thần tượng đổ vỡ ắt hẳn niềm tin cũng tan tành. Vì đó không chỉ là cặp phạm trù ắt có của cuộc sống, mà còn là đôi cánh của tâm hồn. Vậy là nỗi đau của chúng ta đã bị nhân lên gấp bội. Còn đối với nhà thơ, người suốt đời “cô đơn quấn chiếc khăn bạc màu” niềm đau ấy quả là không kể xiết! Đọc những dòng thơ này trong ta bỗng dấy lên niềm bâng khuâng liên tưởng - phải chăng vì không vượt qua được sự đổ vỡ kia mà Hemingway, Maiakosky, Khuất Nguyên, Nhất Linh đã phải tự kết thúc nỗi dằn vặt của mình (?). Và, để chiêm nghiệm sự đổ vỡ đó tác giả đã hướng cảm xúc đến nỗi thống khổ của cộng đồng, của phần thế giới bị che khuất bởi chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, và lòng đố kị, hận thù… Hôm nay Những gã thi sĩ say Hồn bay khỏi cảnh giới A-tu-la Những đứa trẻ chưa biết chữ Đã biết cầm súng, cầm gươm, nhấn nút điều khiển computer Thế giới này Đổ vỡ Vậy đó, như một hệ quả tất yếu, càng xây dựng nhiều thần tượng thì sự đổ vỡ càng nhiều hơn… và bây giờ thì: Chiếc cầu đã gãy Bàn tay rệu rã Thả viên sỏi vào dòng sông Ai không giữ lời thề Sự đổ vỡ đè trên trần thế Thật chẳng bất ngờ chút nào, khi Lê Huỳnh Lâm đã dành nhiều mối quan tâm, nhiều tiếng nói khác nhau cho sự đổ vỡ đau đớn kia. Tuy vậy, nỗi đau đó không phải để buột lên tiếng thét của tuyệt vọng, mà để cất lên tiếng nói của trách nhiệm và của lương tri trước những số phận nhỏ nhoi; những người phu xe thèm giấc ngủ, gã thi sĩ thèm được ăn thịt, người tử tù trong xà lim tối tăm… Với tiếng nói đó, thơ Lê Huỳnh Lâm như đã thoát khỏi cái Tôi nặng nề, kể lể. Nói như A. Einstein: “Giá trị đích thực của một con người trước hết được xác định bởi anh ta đã đạt đến chỗ giải phóng cái Tôi đến mức độ nào và theo nghĩa nào” (Thế giới như tôi thấy). Trong cách nhìn ấy, Lê Huỳnh Lâm làm thơ như thể để lặng lẽ trò chuyện về bao mối ưu tư nặng trĩu trong tâm hồn mình. Vì thế, thơ Lê Huỳnh Lâm đầy ắp những sự kiện, dẫn chứng gần với thể loại thơ văn xuôi. Nhiều bài thơ thể hiện sự phóng túng, không bóng bẩy nhưng lại toát lên vẻ đẹp có tính khắc họa giản dị mà bí ẩn… đêm tháng bảy mình ta với phố một vòm cây một bóng trắng một trời mơ con đò nhỏ dần xa bến nước lặng lẽ ngày đêm lặng lẽ chờ Những hình ảnh được dựng lên ở đây không phải để mơ mộng, mà để dẫn dắt về nơi ngọn nguồn của nỗi cô đơn: Đêm mất ngủ Nhìn đoàn người du mục trên chính quê hương mình. Nhà thơ không thể chạy trốn nỗi cô đơn bằng cách úp mặt vào bóng tối. Bởi vì, chính tận ngọn nguồn đó là sự khác biệt về đau khổ, lòng kiêu hãnh, và cả sự tự hào về trách nhiệm… Tất cả mọi thứ đó, đòi hỏi phải có tiếng nói, phải có ngôn ngữ để chuyển dịch thành cuộc sống của thi ca. Tôi nhớ tới một câu nói của A. Camus đại ý: nghệ thuật là sự chuyển dịch điều mình cảm thụ vào trong điều mình mong muốn kẻ khác cảm thụ cho. Trong ý nghĩa đó, tập thơ Thi ca mùa ngái ngủ đã cho người đọc cảm thụ được thông điệp tác giả mang tới. Đó là thông điệp của sự bất trắc vì quá văn minh, nên đã rôbô hóa các quan hệ con người… có lẽ, tinh thần của thông điệp này không phải là điều mới mẻ, nhưng cách thức lên tiếng, quyết định một cách viết của tác giả cho thấy sự dũng cảm của một người đứng riêng rẽ - không phải vì lỗi hệ thống mà vì mối ưu tư anh cảm nhận thật lớn và ngày nào còn trĩu nặng mối ưu tư, còn bao điều cảm thụ, chúng ta sẽ còn đọc được những thông điệp thực sự từ cuộc sống, thông qua tài năng chuyển dịch của những nhà thơ, của Lê Huỳnh Lâm… Huế, 11/2007 P.T.H (263/01-11) |
Những năm đầu sau ngày miền giải phóng, có mấy lần nhà thơ Xuân Diệu vào các tỉnh Nam Trung Bộ và dừng ở Nha Trang ít ngày. Đến đâu Xuân Diệu cũng nói chuyện thơ, được người nghe rất hâm mộ, đặc biệt là giới trẻ.
Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.
1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).
(Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.
Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.
Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)
Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".
Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.
Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).
Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.
Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.
Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...
Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.
LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH
Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.
Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.
Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.
(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp: “Những lo toan năm tháng đời thường Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”
đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...
Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.