CARSON MCCULLERS
Khi tôi là một đứa bé chừng bốn tuổi, tôi cùng người bảo mẫu của mình đi ngang qua một tu viện.
Nhà văn Carson Mccullers - Ảnh: internet
Riêng một lần, các cánh cửa chính tu viện được mở. Và tôi đã nhìn thấy những đứa trẻ đang ăn kem ống, chơi trên những chiếc xích đu sắt, và tôi ngắm nghía, bị mê hoặc. Tôi muốn đi vào, nhưng người bảo mẫu bảo không, tôi không phải là người Công giáo. Hôm sau, cánh cổng đóng. Nhưng, năm này qua năm khác, tôi cứ nghĩ về những điều diễn ra, về bữa tiệc tuyệt vời này, nơi tôi bị cấm cửa. Tôi muốn trèo qua tường nhưng tôi quá nhỏ. Có lần tôi đấm vào bức tường, và tôi luôn biết rằng có một bữa tiệc kì diệu diễn ra, nhưng tôi không được tham dự.
Sự cô đơn tinh thần là nền tảng hầu hết các chủ đề của tôi. Cuốn sách đầu tiên của tôi có liên quan với điều này, hầu như hoàn toàn, và tất cả các cuốn sách của tôi kể từ đó, bằng cách này hay bằng cách khác đều như thế. Tình yêu, và đặc biệt là tình yêu của một người không thể đáp lại hay đón nhận nó, nằm ở tâm điểm sự lựa chọn của tôi về những nhân vật dị hợm để viết về - những người khiếm khuyết về thể chất là một biểu tượng về khiếm khuyết tinh thần của chính họ để yêu thương hay đón nhận tình yêu - Đó là sự cô đơn tinh thần của họ.
Để hiểu một tác phẩm, điều quan trọng với người nghệ sĩ là phải đúng về mặt cảm xúc ngay trên tâm điểm; để thấy, để biết, để trải nghiệm những điều đang viết về. Rất lâu trước khi đạo diễn Harold Clurman, xin chúc phúc tâm hồn ông, người đạo diễn Thành viên của Tiệc cưới (The Member of the Wedding), tôi nghĩ là tôi đã từng đạo diễn mọi con ruồi và muỗi mắt trong căn phòng đó bao năm về trước.
Những kích thước của một tác phẩm nghệ thuật hiếm khi được nhận ra bởi chính tác giả cho đến khi tác phẩm được hoàn tất. Nó giống như một giấc mộng đơm bông. Những ý tưởng tăng trưởng, lặng lẽ đâm chồi, và ngày lại ngày có một nghìn sự tỏa sáng đang đến khi tác phẩm tiến triển. Một hạt giống tăng trưởng trong khi viết như trong tự nhiên. Hạt giống của ý tưởng đã phát triển bởi cả công sức lẫn vô thức, và sự tranh đấu diễn tiến giữa hai thứ đó.
Tôi chỉ hiểu được những phần mảnh. Tôi hiểu những nhân vật, nhưng chính cuốn tiểu thuyết không nằm trong tiêu điểm. Tiêu điểm đến vào những khoảnh khắc ngẫu nhiên mà không ai có thể hiểu được, chính tác giả là hiểu ít nhất. Về phần tôi, chúng thường theo sau nỗ lực lớn. Đối với tôi, những sự tỏa sáng này là ân sủng của sự nỗ lực. Tất cả tác phẩm của tôi xảy ra theo cách này. Nó vừa là may rủi vừa là cái đẹp mà một nhà văn phải phụ thuộc vào những sự tỏa sáng như thế. Sau nhiều tháng hoang mang và nỗ lực, khi ý tưởng đơm bông, sự hội tụ này là Thiêng liêng. Nó luôn đến từ tiềm thức và không thể bị kiểm soát. Suốt một năm tôi miệt mài về cuốn Tâm hồn là một Kẻ săn đuổi Cô đơn (The Heart is a Lonely Hunter) mà chẳng hề hiểu nó chút nào. Mỗi nhân vật nói với một nhân vật trung tâm, nhưng tại sao, tôi không biết. Tôi hầu như quyết định cuốn sách không phải là một tiểu thuyết, rằng tôi nên chặt nó ra thành những truyện ngắn. Nhưng tôi có thể cảm thấy sự hủy hoại trong thân thể mình khi tôi có ý tưởng đó, và tôi tuyệt vọng. Tôi đã làm việc trong năm giờ và rồi tôi đi ra ngoài. Đột nhiên, khi tôi đi băng ngang qua một con đường, tôi nảy ra ý rằng Harry Minowitz, nhân vật mà tất cả các nhân vật khác nói với, là một người đàn ông khác biệt, một kẻ câm điếc, và tức khắc cái tên được thay đổi thành John Singer. Toàn bộ tiêu điểm của cuốn tiểu thuyết được cố định và lần đầu tiên tôi dấn mình với tất cả linh hồn vào Tâm hồn là một Kẻ săn đuổi Cô đơn.
Điều gì để biết và Điều gì để không biết? John Brown, đến từ Đại sứ quán Hoa Kì, ở đây để viếng thăm, và ông chỉ ngón tay dài và nói, “Tôi khâm phục bà, Carson, vì sự không biết của bà.” Tôi nói, “Tại sao?” Ông hỏi, “Khi nào là trận chiến Hastings, nó nói về cái gì? Khi nào là trận chiến Waterloo, và điều đó nói về cái gì?” Tôi nói, “John, tôi không nghĩ tôi quan tâm nhiều.” Ông nói, “Đó là điều tôi muốn nói. Bà không làm chật chội đầu óc của mình với những sự kiện của cuộc sống.”
Khi tôi gần như hoàn thành cuốn Tâm hồn là một Kẻ săn đuổi Cô đơn, chồng tôi nêu ra rằng có một cuộc hội họp của những người câm điếc ở một thị trấn kề đó và anh cho rằng tôi sẽ muốn đi và quan sát họ. Tôi bảo anh rằng nó là điều cuối cùng tôi muốn làm bởi vì tôi đã có quan niệm về những người câm điếc và không muốn nó bị xáo trộn. Tôi giả tưởng rằng James Joyce cũng cùng thái độ như thế khi ông sống ngoài nước và không bao giờ viếng thăm lại quê hương, cảm thấy rằng thành phố Dublin của ông được cố định mãi mãi - nó bây giờ quả như thế thật.
Tài sản quan trọng nhất của một nhà văn là trực giác; quá nhiều sự kiện gây trở ngại cho trực giác. Một nhà văn cần biết rất nhiều điều, nhưng có rất nhiều điều không cần biết - nhà văn ấy cần biết những điều về con người ngay cả khi chúng không “lành mạnh” như người ta bảo thế.
Mỗi ngày, tôi đọc báo ngày New York, và rất tỉnh táo. Thật lí thú để biết tên của con đường tình nhân nơi sự đâm chém xảy ra, và những hoàn cảnh mà thời báo New York không bao giờ tường thuật. Trong vụ giết người chưa được giải quyết đó tại đảo Staten, thật lí thú để biết rằng bác sĩ và vợ ông ta, khi bị đâm, đang mặc những bộ đồ ngủ của giáo phái Mormon, chiều dài ba phần tư người. Bữa ăn sáng của Lizzie Borden, trong ngày Hè oi ả cô giết cha mình, là súp thịt cừu. Những chi tiết luôn luôn khơi gợi nhiều ý tưởng hơn bất cứ sự chung chung nào có thể cung cấp. Khi Đức Kitô bị đâm vào sườn trái, điều này cảm động hơn và khơi gợi hơn là nếu nói rằng ông chỉ bị đâm thôi.
Người ta không thể giải thích những lời cáo buộc về tính bệnh hoạn. Một nhà văn chỉ có thể nói mình viết từ hạt giống mà sau này nó đơm bông trong tiềm thức. Tự nhiên thì không bất thường, chỉ sự thiếu đời sống là bất thường. Bất cứ điều gì nhảy mạch và di động và đi bộ vòng quanh căn phòng, bất kể nó đang làm gì, thì tự nhiên và mang tính người đối với một nhà văn. Sự kiện rằng John Singer, một người đàn ông câm điếc trong Tâm hồn là Kẻ săn đuổi Cô đơn, là một biểu tượng, và sự kiện rằng Thuyền trưởng Penderton, trong Phản chiếu trong một Con mắt Hoàng kim, thì đồng tính, cũng là một biểu tượng, về khuyết tật và bất lực. Người câm điếc, Singer, là một biểu tượng về tàn tật, và ông yêu một người không thể đón nhận tình yêu của ông. Những biểu tượng gợi ra câu chuyện và chủ đề và sự cố, và chúng quá đan dệt vào nhau đến nỗi không ai có thể hiểu một cách có ý thức nơi nào sự gợi mở bắt đầu. Tôi trở thành những nhân vật mà tôi viết về. Tôi quá đắm mình vào họ đến nỗi những động cơ của họ là động cơ của chính tôi. Khi tôi viết về một tên trộm, tôi trở thành một tên trộm; khi tôi viết Thuyền trưởng Penderton, tôi trở thành một người đàn ông đồng tính; khi tôi viết về một người câm điếc, tôi trở thành câm điếc suốt thời gian của câu chuyện. Tôi trở thành những nhân vật mà tôi viết về và tôi chúc phúc cho Nhà thơ Latinh Terence người đã nói, “Không có gì thuộc về con người là xa lạ đối với tôi.”[1]
Khi tôi viết kịch bản Thành viên của Tiệc cưới, cùng lúc tôi bị tê liệt, và tình huống hướng ngoại của tôi thực sự khốn khổ; nhưng khi tôi hoàn tất kịch bản đó, tôi viết cho một người bạn của mình rằng, “Ồ, làm nhà văn thật là tuyệt vời, tôi chưa từng hạnh phúc như thế này bao giờ.”
Khi tác phẩm không trôi chảy, không cuộc sống nào khốn khổ hơn cuộc sống của một nhà văn. Nhưng khi nó trôi chảy, khi sự tỏa sáng tập trung vào một tác phẩm để nó tiến triển trong vắt và trôi chảy, không có niềm vui nào giống như điều đó.
Tại sao người ta viết? Thực sự về mặt tài chánh nó là nghề nghiệp được tưởng thưởng tồi tệ nhất trên thế giới. Luật sư của tôi đã tính toán ra tôi đã làm được bao nhiêu từ cuốn sách Thành viên của Tiệc cưới, và nó là, trong năm năm, 28 xu mỗi ngày. Rồi điều mỉa mai là, vở kịch Thành viên của Tiệc cưới đã làm ra quá nhiều tiền đến nỗi tôi phải cho chính phủ 80% - điều mà tôi hạnh phúc hay ít nhất phải hạnh phúc, để làm.
Sự việc phải là người ta viết từ nhu cầu tiềm thức cho truyền thông, cho sự tự biểu lộ nào đó. Viết lách là một nghề lang thang và mơ mộng. Trí khôn bị chìm ngập bên dưới vô thức, đầu óc suy nghĩ tốt nhất là được trí tưởng tượng kiểm soát. Tuy vậy việc viết lách thì không vô định hình và phi trí tuệ hoàn toàn. Vài tiểu thuyết và văn xuôi hay nhất thì chính xác như một số điện thoại nhưng ít người viết văn xuôi có thể đạt tới điều này bởi vì sự tinh luyện của đam mê và thơ ca thì cần thiết. Tôi không thích từ văn xuôi. Nó quá tẻ nhạt. Văn xuôi hay phải hòa với ánh sáng của thi ca; văn xuôi phải giống như thi ca, thi ca phải tạo nghĩa giống văn xuôi.
Tôi thích nghĩ về Anne Frank và sự truyền thông bao la của cô bé. Đó là truyền thông không chỉ của một bé gái mười hai tuổi mà còn là một truyền thông của lương tâm và lòng can đảm.
Ở đây, thực sự có sự cô đơn, nhưng mang tính vật thể hơn là sự cô đơn tâm hồn. Vài năm trước, cha của Anne Frank hẹn gặp tôi tại khách sạn Đại lục (Continental) ở Paris. Chúng tôi nói chuyện với nhau và ông hỏi tôi liệu tôi có thể dựng kịch cuốn nhật kí của con gái ông không. Ông cũng đưa tôi cuốn sách, mà tôi chưa đọc bao giờ. Nhưng khi tôi đọc cuốn sách, tôi quá choáng váng đến nỗi bàn tay và bàn chân tôi nổi ban, và tôi phải bảo với ông rằng trong những hoàn cảnh này tôi không thể dựng kịch được.
Nghịch lí là đầu mối cho sự truyền thông, vì cái không là thường dẫn tới sự nhận thức về cái là. Một lần Nietzsche đã viết cho bà Cosima Wagner, “Ước sao có được ba người hiểu tôi.” Cosima hiểu ông và nhiều năm sau một người đàn ông tên là Adolf Hitler xây dựng cả một hệ thống triết học quanh một sự hiểu lầm về Nietzsche. Thật là nghịch lí bởi một triết gia vĩ đại giống như Nietzsche và một nhà soạn nhạc vĩ đại giống như Richard Wagner đã có thể đóng góp nhiều như thế cho sự đau khổ của thế giới trong thế kỉ này. Sự hiểu biết thiên lệch đối với một kẻ ngu dốt là một sự hiểu biết bị méo mó và chủ quan, và chính vì loại hiểu biết này mà triết học của Nietzsche và những sáng tạo của Richard Wagner là cái chủ yếu của sự thu hút cảm xúc của Hitler với nhân dân Đức. Hắn ta có khả năng biến hóa những ý tưởng vĩ đại vào sự tuyệt vọng trong thời của hắn, mà chúng ta phải nhớ rằng đó là một sự tuyệt vọng thực sự.
Khi người ta hỏi tôi ai có ảnh hưởng tới tác phẩm của tôi, tôi nêu ra O’Neil, các nhà văn Nga, Faulkner, Flaubert. Bà Bovary dường như được viết với sự súc tích thần thánh. Nó là một trong những cuốn tiểu thuyết được viết đau đớn nhất, và đồng thời cũng là một trong những tiểu thuyết bị người ta cứu xét một cách đau đớn nhất, của bất cứ thời đại nào. Bà Bovary là hợp chất của tiếng nói thực tại của thế kỉ Flaubert, của chủ nghĩa hiện thực đối lại đầu óc lãng mạn của thời đại ông. Trong sự sáng suốt và duyên dáng không có lỗi của mình, nó dường như bay thẳng từ ngòi bút Flaubert không hề có sự ngắt quãng nào trong tư tưởng. Lần đầu tiên, ông xử lí sự thật của mình như một nhà văn.
Chỉ với sự tưởng tượng và thực tại thì bạn mới nắm bắt được những điều một cuốn tiểu thuyết yêu cầu. Thực tại đơn độc không bao giờ là quan trọng đến thế đối với tôi. Có một lần, một giáo viên nói rằng người ta nên viết về cái sân sau nhà mình; và với điều này, tôi giả thiết, cô có ý là người ta nên viết về những điều mà người ta biết một cách thân thiết nhất. Nhưng còn cái gì thân thiết hơn trí tưởng tượng của chính người ta đâu? Sự tưởng tượng kết nối kí ức với trực quan, kết nội thực tại với mộng mơ.
Nhiều người hỏi tôi rằng sao tôi không trở về miền Nam thường xuyên hơn. Nhưng miền Nam là một kinh nghiệm rất cảm xúc đối với tôi, chất chứa đầy tất cả những kí ức tuổi thơ tôi. Khi tôi trở về miền Nam tôi luôn mắc vào những tranh luận, đến nỗi một chuyến viếng thăm thành phố Columbus ở Georgia là một sự khơi dậy yêu thương và sự đối nghịch. Địa bàn những cuốn sách của tôi có lẽ luôn luôn là miền Nam, và miền Nam luôn luôn là quê nhà của tôi. Tôi yêu tiếng nói của người da đen - giống như những dòng sông chở nặng phù sa. Tôi cảm thấy rằng trong những hành trình ngắn khi tôi về miền Nam, trong kí ức của riêng tôi và trong những bài viết trên báo, tôi vẫn có thực tại của riêng mình.
Nhiều tác giả thấy khó để viết về những cảnh quan mới mà họ không biết trong thời ấu thơ. Những tiếng nói vọng lại từ thơ ấu có một cao độ trung thực hơn. Và tàn lá - những cây của ấu thơ - được ghi nhớ chính xác hơn. Khi tôi làm từ bên trong một địa bàn khác với miền Nam, tôi phải tự hỏi những cây hoa trổ bông lúc nào - và những hoa gì? Tôi khó khăn để cho nhân vật nói trừ khi họ là người miền Nam. Wolf viết xuất sắc về khu Brooklyn, nhưng xuất sắc hơn nữa về nhịp điệu và cách nói miền Nam. Đây là điều đúng đặc thù về nhà văn miền Nam bởi vì nó không chỉ là tiếng nói của họ và tàn lá, mà còn là toàn bộ văn hóa của họ - điều làm nó thành một quê nhà trong một quê nhà. Bất kể chính trị, mức độ, không mức độ về chủ nghĩa tự do trong một nhà văn miền Nam, nhà văn ấy vẫn bị ràng buộc với chủ nghĩa địa phương riêng biệt này về ngôn ngữ, tiếng nói, tàn cây và kí ức.
Ít nhà văn miền Nam thực sự lịch lãm. Khi Faulkner viết về Không quân Hoàng gia Anh (R.A.F. [Royal Air Force]) và nước Pháp, ông phần nào không có sức thuyết phục - trong khi tôi bị thuyết phục hầu hết mọi dòng về hạt Yoknapatawpha. Thực sự, đối với tôi Âm thanh và Cuồng nộ có lẽ là tiểu thuyết Mĩ vĩ đại nhất. Nó có sự xác thực, sự cao cả, và trên hết, sự dịu dàng xuất phát từ sự kết hợp của thực tại và mộng mơ mà sự kết hợp ấy là sự hội tụ Thần thánh.
Hemingway, ngược lại, là nhà văn lịch lãm nhất trong tất cả những nhà văn Mĩ. Ông thoải mái như ở nhà khi ở Paris, ở Tây Ban Nha, ở châu Mĩ, trong những chuyện kể Da đỏ về tuổi thơ ông. Có lẽ nó là phong cách của ông, là một sự chuyển tải, một dạng thức biểu lộ được rèn đúc đẹp đẽ. Rành nghề như Hemingway về việc tạo ra và thuyết phục độc giả về những quan điểm khác nhau của ông, về mặt cảm xúc ông vẫn là một người lang thang. Trong phong cách của Hemingway một số điều bị che giấu về nội dung cảm xúc của tác phẩm của ông. Nếu tôi thích Faulkner hơn Hemingway, đó là bởi vì tôi xúc động hơn về những cái thân quen - việc viết văn nhắc tôi về thời ấu thơ của riêng mình và đặt một tiêu chuẩn cho sự thương nhớ về ngôn ngữ. Đối với tôi Hemingway dường như sử dụng ngôn ngữ như một phong cách viết.
Nhà văn bằng tính chất của nghề nghiệp mình là một kẻ mộng mơ và một kẻ mộng mơ có ý thức. Làm sao không với tình yêu và trực giác đến từ tình yêu một người có thể đặt chính mình vào thân phận của một người khác. Người ấy phải tưởng tượng, và sự tưởng tượng khoác lấy sự khiêm tốn, tình yêu và lòng can đảm lớn lao. Làm cách nào mà bạn có thể tạo ra một nhân vật mà không có tình yêu và sự tranh đấu đi kèm với tình yêu?
Từ nhiều năm tôi đã làm việc về một cuốn tiểu thuyết có tên là Đồng hồ không kim, và chắc sẽ hoàn thành nó trong khoảng hơn hai năm nữa. Tôi mất nhiều thời gian cho những cuốn sách của mình. Cuốn tiểu thuyết này trong sự diễn tiến ngày qua ngày bởi sự tập trung. Là một nhà văn, tôi luôn làm việc chăm chỉ. Nhưng là một nhà văn, tôi cũng biết làm việc chăm chỉ là chưa đủ. Trong diễn tiến của sự làm việc chăm chỉ, phải có tới một lúc tỏa sáng, một tia lửa thần thánh đặt tác phẩm vào trong tiêu điểm và sự cân bằng.
Khi tôi hỏi [kịch tác gia] Tennessee Williams làm sao mà đầu tiên ông lại nghĩ về Bầy thú thủy tinh, ông nói rằng nó được gợi ra bởi một cái màn thủy tinh ông đã thấy ở nhà một giáo dân ở giáo xứ của nội ông. Từ đó trở đi nó trở thành điều mà ông gọi là trò chơi kí ức. Làm cách nào sự hồi tưởng về tấm màn thủy tinh đó phù hợp với những kí ức về thời niên thiếu của ông, cả ông và tôi đều không hiểu được, nhưng vô thức thì chẳng dễ hiểu chút nào mà.
Sự sáng tạo bắt đầu trong bất cứ nghệ thuật nào ra sao? Khi Tennessee viết Bầy thú thủy tinh như một trò chơi kí ức, tôi viết Thần đồng khi tôi mười bảy tuổi, và nó là một kí ức, mặc dù không phải thực tại của kí ức - nó là một kĩ thuật rút gọn tiền cảnh[2] về kí ức đó. Nó về một sinh viên trẻ học nhạc. Tôi không viết về giáo viên dạy nhạc thực sự của tôi - tôi viết về nhạc chúng tôi học với nhau bởi vì tôi nghĩ nó đúng hơn. Tưởng tượng thì đúng hơn thực tại.
Tình yêu cá nhân đam mê - tình yêu Tristan - Isolde ngày xưa, tình yêu của Eros (thần Tình ái) - thì thấp hơn tình yêu của Chúa, tình bằng hữu, tình yêu của Agape (Tâm hồn tri kỉ) - thần Hi Lạp của yến tiệc, Chúa của tình anh em - và của loài người. Điều này là cái tôi cố để chỉ ra trong Ca khúc của quán Cà phê Buồn trong tình yêu kì lạ của cô Amelia với chàng gù bé nhỏ, anh họ Lymon.
Tác phẩm của nhà văn không chỉ được đặt nền trên cá tính của nhà văn ấy mà còn bởi khu vực sinh ra. Thỉnh thoảng tôi tự hỏi phải chăng cái người ta gọi là trường phái “Gothic” về văn viết miền Nam, trong đó cái dị hợm song song với cái cao cả, chẳng phụ thuộc lớn lao vào sự rẻ mạt của đời sống con người ở miền Nam sao. Những nhà văn Nga giống như những nhà văn miền Nam ở phương diện đó. Trong thời ấu thơ của mình, miền Nam hầu như là một xã hội phong kiến. Nhưng miền Nam còn phức tạp bởi vấn đề chủng tộc trầm trọng hơn là xã hội Nga. Đối với một người miền Nam nghèo, niềm kiêu hãnh duy nhất mà kẻ đó có được là sự kiện rằng hắn là người da trắng và khi niềm tự kiêu hãnh của riêng hắn bị hạ thấp một cách thảm hại, làm sao người ta có thể học cách yêu thương? Vượt trên tất cả, tình yêu là cái phát sinh chính của tất cả văn hay. Tình yêu, đam mê, từ bi tất cả hàn gắn với nhau.
Trong bất cứ sự truyền thông nào, một điều nói với một người thì hoàn toàn là một điều khác hẳn với điều nó nói với một người khác, nhưng việc viết, trong cốt tủy, là sự truyền thông; và sự truyền thông là sự tiếp cận duy nhất với yêu thương - tới tình yêu, lương tâm, tự nhiên, Thượng đế, và tới cõi mộng. Đối với tôi, càng đi sâu hơn vào tác phẩm của chính mình, và càng đọc những nhà văn tôi yêu dấu, tôi càng nhận thức mình thuộc về cõi mộng và luận lí của Thượng đế, mà thực chất là một sự hội tụ Thần thánh.
Hồ Liễu dịch
Nguồn: http://www.carson-mccullers.com/html/flowering.html
(SH284/10-12)
[1] Chú thích của người dịch:
Nguyên văn câu này là: “I’m a human and Nothing human is alien to me.”/ “Tôi là một con người và không có gì thuộc về con người là xa lạ đối với tôi.” Đây là câu châm ngôn được Karl Marx yêu thích nhất.
[2] Chú thích của người dịch:
Foreshortening: là kĩ thuật rút ngắn tiền cảnh do Mantegna sáng tạo vào thế kỉ 15.
NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.
HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.
NGUYỄN VĂN THUẤN (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.
PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.
THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.
HÀ ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.
LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.
BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.
HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.
LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.
TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.
HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.
NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.
NGUYỄN KHẮC PHÊ Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).
PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.
TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H
MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.