Ghi chép tại “bàn tròn” về công tác lý luận phê bình mỹ thuật

09:05 17/03/2009
VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.

Đối với mỹ thuật, trong nhiều năm qua, công tác lý luận phê bình vẫn bị xem là “dậm chân tại chỗ”, do có một thời gian dài chúng ta quá đặt nặng nội dung mà xem nhẹ hình thức, trong khi bất cứ nội dung nào cũng đều chứa đựng hình thức, và ngược lại. Bên cạnh đó, nhiều quan điểm nghệ thuật cứng nhắc, đã trở thành lối mòn mà chậm được thay đổi, gây nên hạn chế trong việc tiếp cận các trào lưu nghệ thuật của thế giới đương đại. Việc phê bình thì cứ phê bình, sáng tạo thì cứ sáng tạo, mạnh ai nấy làm, thiếu sự gắn kết với nhau vẫn đang tồn tại. Môi trường nghệ thuật thiếu sức lan toả cho công chúng, ví dụ tranh treo tại các galery thì hầu như bị “đóng khung” trong một không gian chật hẹp, bởi người thưởng ngoạn rất thưa thớt. Nhiều cuộc triển lãm tranh, trong đó có những lần được giới chuyên môn đánh giá cao về chất lượng nghệ thuật, song cũng chỉ rầm rộ trong ngày cắt băng khai mạc; những ngày tiếp theo dần dần rơi vào không khí trầm mặc và quên lãng. Vậy thì rõ ràng, vai trò cầu nối giữa người sáng tạo với công chúng của những nhà lý luận phê bình đang còn nhiều khoảng trống. Một ví dụ nữa là, ở Huế đã ba lần mở trại sáng tác điêu khắc quốc tế; số tượng để lại tại các công viên là khá nhiều, và mang đầy đủ phong cách điêu khắc hiện đại của các châu lục, nhưng vớI công chúng thì vẫn cứ thờ ơ; một phần vì họ chưa hiểu hết, chưa đánh giá hết giá trị nghệ thuật của nó, và đang cần một sự định hướng về thẩm mỹ nghệ thuật. Đối với vấn đề giữa bản sắc dân tộc và tính hiện đại thì, cả người sáng tạo lẫn người phê bình hình như vẫn đang gặp nhiều lúng túng.

Nhằm đẩy mạnh công tác lý luận phê bình nghệ thuật trong những năm trước mắt, cần phải có những cuộc hội thảo khoa học về vấn đề này. Để tiến tới một cuộc hội thảo lý luận phê bình mỹ thuật mang tính toàn quốc, Hội Mỹ thuật Việt chủ trương mở một số cuộc toạ đàm tại một số tỉnh, thành. Cuộc toạ đàm diễn ra ở Huế trong tháng 6 vừa qua là cuộc toạ đàm thứ hai, sau cuộc toạ đàm ở thành phố Hồ Chí Minh; tiếp theo sẽ đến Hà NộI và một số địa phương khác.

Tại Huế, những ý kiến phát biểu trong toạ đàm đã nêu bật vấn đề, công tác lý luận phê bình mỹ thuật lâu nay rất ỳ ạch, chậm đổi mới; hầu như chưa tìm được lối ra, chưa tiếp cận được với phong cách hiện đại. Trong phát biểu đề dẫn của phó giáo sư tiến sỹ Nguyễn Đỗ Bảo, Uỷ viên Ban thường vụ Hội Mỹ thuật Việt đã nhấn mạnh: Cần phải hiện đại hoá lý luận văn nghệ và đổi mới tư duy lý luận; vận dụng lý luận cho phù hợp với thời đại. Trong tiến trình hội nhập quốc tế về văn học nghệ thuật, giao lưu học tập cái mới, chúng ta phải sẵn sàng tiếp cận tất cả các trào lưu nghệ thuật của thế giới, song không nên bắt chước nguyên vẹn hoặc mô phỏng của họ. Đối với nghệ thuật thì mối quan hệ giữa hình thức và nội dung phải phù hợp với quan niệm mới, không thể xem nhẹ hình thức mà phải đặt nó ngang bằng với nội dung. Những nhà lý luận phê bình cũng phải tự tìm con đường đi cho riêng mình, không nên lệ thuộc hoàn toàn vào người sáng tạo.

Nhà nghiên cứu văn học Bửu Ý cho rằng: Lý luận và phê bình không phải đi liền mà có thể là hai con đường khác nhau, và sáng tạo lại có con đường đi riêng của nó. Sáng tạo phải luôn đi đầu. Theo ông, sáng tác văn học nghệ thuật của Việt tiến chậm so với thế giới, một phần do công tác lý luận phê bình của chúng ta đặt quá nặng những vấn đề to tát, làm chùn bước tiến của nhiều cây bút sáng tác. Một số cây bút lý luận chỉ chờ chực để cho những lời răn đe, gây tác động ngược đến sáng tác. Lý luận phê bình phải có tác dụng gợi mở, muốn vậy những người làm công tác này cần có tấm lòng rộng rãi với nghệ thuật. Để mở rộng môi trường nghệ thuật đến với công chúng, vai trò quan trọng thuộc về các nhà phê bình, giúp cho công chúng hiểu được cái đẹp của nghệ thuật. Ngoài ra, ông còn đề cập đến trách nhiệm của các nhà lãnh đạo từ trung ương đến địa phương đối với các văn nghệ sỹ, chẳng hạn như mỗi địa phương cần có quỹ riêng để mua tranh, vừa để lưu giữ các tác phẩm đẹp, vừa để động viên các hoạ sỹ.

Nhà lý luận phê bình mỹ thuật Phan Thanh Bình, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nghệ thuật Huế quan niệm, hoạt động lý luận phê bình nghệ thuật không chỉ đóng khung cho những người chuyên làm công tác này, mà còn dành cho nhiều người yêu nghệ thuật. Theo anh, sự trung thực, chính xác của công tác phê bình là rất quan trọng, bởi ngay trong giới chuyên môn, đã từng xuất hiện những bài tán dương gây hiểu nhầm, tai hại cho công chúng đối với một tác phẩm hoặc một cuộc triển lãm rất bình thường. Điều này còn diễn ra trong việc chấm một số giải thưởng mỹ thuật, có những giải gây bất ngờ tranh cãi, có những tác phẩm được giải lại na ná một tác phẩm nào đó đã có sẵn, trong khi có những tác phẩm đẹp lại không được giải. Công tác lý luận phê bình không thể giải quyết sự thiếu hụt trong vòng 5 - 10 năm tới mà phải dài hơi hơn, vì việc phát triển nó ngay trong các trường đào tạo chuyên ngành cũng còn nhiều hạn chế. Phải quan tâm thấu đáo việc đầu tư xây dựng đội ngũ làm công tác này, bởi trong sáng tác dẫn đầu về cái mới đã khó, đối với lý luận phê bình thì còn khó hơn. Anh còn đề xuất, với các nhà phê bình, cần sớm có ý kiến phản hồi về các hoạt động mỹ thuật đang gây tranh cãi.

Hoạ sỹ Hải Yến, Chi hội trưởng Chi hội Lý luận Phê bình của Hội Mỹ thuật Việt Nam nhận định, sự thay đổi đến chóng mặt trong sáng tác buộc lý luận phê bình phải thay đổi theo. Trong bối cảnh giao lưu như hiện nay, đòi hỏi công tác lý luận phê bình càng phải có đường lối chủ đạo, có nền tảng vững chắc. Khi nói về bản sắc dân tộc trong sáng tác, chị đánh giá, đó là vấn đề rất trừu tượng, nhiều hoạ sỹ quan niệm cứ phải có luỹ tre làng, có đồng ruộng hay con trâu, con cò trong tác phẩm mới là bản sắc dân tộc. Quan niệm như thế quả là thô mộc; đây là công việc cần có sự mở đường của các nhà lý luận.

Nhà điêu khắc Nguyễn Hiền, người đã ba lần phụ trách trại sáng tác điêu khắc quốc tế ở Huế cho rằng, mỗi lần mở trại là mở được cánh cửa giao lưu nghệ thuật với thế giới. Việt đã có sáu lần mở trại điêu khắc quốc tế, song những bài viết về nó thì chưa tương xứng, thậm chí còn chưa đúng, chưa đủ khả năng dẫn dắt, định hướng cho công chúng về nghệ thuật.

Ý kiến của các hoạ sỹ: Trương Bé, Uỷ viên Ban chấp hành Hội Mỹ thuật Việt Nam; Nguyễn Hùng, Phó Tổng biên tập Tạp chí Mỹ thuật; Nguyễn Văn Hải, giảng viên bộ môn lý luận phê bình mỹ thuật đều có những điểm chung là, các nhà lý luận phê bình phải tự coi mình là người bạn đường đi cùng với sáng tạo; nhiều tác phẩm nghệ thuật nếu không có các nhà phê bình thì khó đến được với công chúng; sáng tạo nếu không gắn kết được với lý luận phê bình thì sẽ rất lẻ loi.

Nhìn chung, để đổi mới công tác lý luận phê bình mỹ thuật, các nhà chuyên môn đều nhận định: lý luận phê bình phải có tính định hướng, gắn liền với hoạt động xã hội tư tưởng thời đại, và đổi mới theo khuynh hướng dân tộc - hiện đại - nhân văn.

V.H
(197/07-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Theo định nghĩa hiện nay, trường ca là một tác phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình.

  • (Phát biểu ý kiến góp phần vào nội dung Đề án Nghị quyết về “Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH...” của Ban Tuyên giáo Trung ương).

  • 1. Cuốn sách về nhà tình báo nổi tiếng - anh hùng Phạm Xuân Ẩn (PXÂ) của giáo sư sử học người Mỹ Larry Berman, khi được xuất bản bằng tiếng Việt có thêm phụ đề “Cuộc đời hai mặt không thể tin được của Phạm Xuân Ẩn”.

  • Lâm Thị Mỹ Dạ là một nhà thơ trưởng thành trong phong trào chống Mỹ. Nhắc đến thơ chị, người ta thường nhớ đến những bài thơ mang đậm âm hưởng sử thi như Khoảng trời, hố bom, hoặc dịu dàng, nữ tính nhưng không kém phần thẳng thắn như Anh đừng khen em, hoặc nồng cháy yêu đương như Không đề…

  • "Không có cách khác, thưa ngài. Tất cả cái gì không phải văn xuôi thì là thơ; và tất cả cái gì không phải thơ thì là văn xuôi"(Gã tư sản quý tộc, Molière). Trên đây là định nghĩa "thâm thúy" của thầy dạy triết cho ông Jourdain, người mà đã hơn bốn mươi năm trời vẫn sai bảo người ăn kẻ làm, vẫn hằng ngày trò chuyện với mọi người bằng "văn xuôi" mà không tự biết.

  • Trong những vấn đề mới của lý luận văn học hiện nay, các nhà nghiên cứu thường nói đến chức năng giao tiếp của văn học. Khi nói văn học có chức năng giao tiếp thì cũng có nghĩa cho rằng văn học ở ngoài giao tiếp.

  • PHONG LÊ …Không đầy hai thập niên đầu thế kỷ, trong những thức nhận mới của đất nước, nền văn chương- học thuật của dân tộc bỗng chuyển sang một mô hình khác- mô hình quốc ngữ, với sức chuyên chở và phổ cập được trao cho phong trào báo chí, xuất bản bỗng lần đầu tiên xuất hiện và sớm trở nên sôi nổi như chưa bào giờ có trong ngót nghìn năm nền văn chương học thuật cổ truyền…

  • Vừa qua bà văn sĩ Nguyễn Khoa Bội Lan ở Phú Thượng (Huế) đột ngột gọi dây nói cho tôi than phiền về những chi tiết sai với lịch sử trong bài Phạn Bội Châu với Hương Giang thư quán của  Chu Trọng Huyến đăng trên Tạp chí Sông Hương số 116 (10. 1998)

  • Chúng tôi cho rằng trong lịch sử văn học Việt chỉ có Chí Phèo mới là một hình tượng đích thực. Chí Phèo là hiện thân của sự tồn tại vĩnh cửu của bản ngã VÔ CAN. 

  • Đó là bản đàn Thúy Kiều đàn cho Kim Trọng nghe lần cuối trong ngày tái hợp. Bản đàn chứa đầy những mâu thuẫn nghịch lý, bởi vì cũng như bao lần trước, lần này vẫn là bản “bạc mệnh” năm xưa. Nhập hồn Kim Trọng, Nguyễn Du bình luận:                Lọt tai nghe suốt năm cung                Tiếng nào là chẳng não nùng (*) xôn xaoTác quyền và nghệ nhân biểu diễn vẫn là nàng Kiều chứ không còn ai khác, nhưng thật lạ:                Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?Kim Trọng, tri âm và trong cuộc vẫn không khỏi "hồ đồ", huống gì chúng ta, những người đến sau Nguyễn Du muộn hơn hai thế kỷ? 

  • Có thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc. 

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Đội ngũ các nhà văn trẻ mà tôi nói tới trong bài viết này là những cây bút sinh ra sau 1975. Biết rằng trong văn chương, khái niệm trẻ/ già chỉ là một khái niệm có tính “tương đối” vì già hay trẻ đều phải nỗ lực để tạo nên những tác phẩm xuất sắc, vị trí của họ phải được đánh giá thông qua tác phẩm chứ không phải từ những chiếu cố ngoài văn học. 

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTrong văn chương, cách gọi “chủ nghĩa” này hay “chủ nghĩa” khác đều không ổn, thậm chí có hại vì vô hình trung như thế là cách buộc nhà văn theo “một con đường” vạch sẵn mà từ hơn nửa thế kỷ trước, Hải Triều đã lên án...