Fantine, Cosette và chiếc đòn gánh Việt Nam

09:57 04/09/2008
LÊ HỒNG SÂM Cách đây mươi năm, trong một cuộc phỏng vấn thân mật, chị Lộc Phương Thuỷ có hỏi tôi về những kỷ niệm đáng nhớ, liên quan đến văn học, nhất là văn học Pháp. Tôi đã kể cho chị Thuỷ mẩu chuyện nhỏ mà hôm nay tôi xin thuật lại, dưới tiêu đề phù hợp với một trong hai nội dung của hội thảo Fantine, Cosette và chiếc đòn gánh Việt .

Tôi làm quen với Những người khốn khổ của Victor Hugo từ khi còn rất bé, chưa biết chữ. Cha tôi, một nhà nho, vào các buổi tối, thường kể lại cho chị em chúng tôi một số tác phẩm người đã đọc qua bản dịch chữ Hán. Chúng tôi say mê theo dõi những câu chuyện ly kỳ của nàng Schéherazade, chúng tôi hồi hộp nghe về cuộc đời của Jean Valjean (mà cha tôi luôn phát âm là Giăng-văn-Giăng), của Cosette (mà cha tôi cũng việt nam hoá cái tên thành Cô - rét - tội nghiệp, đã "cô", lại còn "rét"!)
Sau đó, tôi đi học, ở trường làng, trường huyện, rồi trường trung học ở Hà Nội. Bây giờ đến lượt chị em chúng tôi, mỗi khi về nghỉ hè, luân phiên đọc báo, đọc sách cho cha vào các buổi trưa. Và tôi đọc lại cho người nghe câu chuyện về Jean Valjean, Fantine, Cosette... qua bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh Những kẻ khốn nạn.
Rồi chiến tranh bắt đầu; như nhiều bạn bè nữ sinh, chúng tôi rời thủ đô, tiếp đó rời gia đình tại vùng quê để đi tham gia kháng chiến. Vào mùa thu năm 1950, ở Hà , nhiều cán bộ trong cơ quan Dân vận tỉnh - thanh niên, phụ nữ, Tôn giáo vận v.v... được huy động tham gia dân công, chuyển lương thực để chuẩn bị cho một chiến dịch. Tôi ở trong số cán bộ này, và được giao phụ trách một nhóm khoảng hai mươi chị đều là dân thành thị tản cư ra vùng tự do, tạo nên một "phố" nhỏ ven đồi đất đỏ, không xa cơ quan tỉnh, "phố" Xích thổ. Kỷ luật rất nghiêm: xâm xẩm tối mới lên đường, đi ban đêm, sáng ra tìm nơi trú ẩn trong các làng, bản ven rừng hoặc vào hang, động, nghỉ ngơi lấy lại sức và tránh bị máy bay phát hiện, bởi việc chuẩn bị chiến dịch phải được giữ bí mật. Tuy là người thành phố không quen vất vả nhưng chúng tôi còn rất trẻ, ít nhiều đều đã tập gồng gánh (trước đó mấy tháng, tập gánh nước lên đồi, tôi đã phải đền chiếc nồi hông cho bà chủ nhà), hai mươi cân gạo đường trường chẳng phải điều gì quá sức, và cả nhóm khởi hành rất vui vẻ.
Nhưng sau hai ba ngày, tôi bắt đầu gặp khó khăn trong việc phụ trách nhóm: vào giờ cả đoàn tập hợp để lên đường, nhóm chúng tôi luôn luôn đến muộn, như thế là phải đi cuối đoàn, điều chẳng mấy dễ chịu, khi xuyên rừng, lại vào ban đêm. Mấy hôm liền cứ đến giờ là tất tả đi tìm, đi gọi mà vẫn phải xếp hàng sau các nhóm khác, tôi vừa lo vừa tò mò, liền để ý quan sát các chị. Và cuối cùng, tôi cho rằng mình đã khám phá ra nguyên nhân của sự chậm trễ lặp đi lặp lại ấy. Trẻ trung đầy sức sống, các chị không chịu được cảnh bó chân bó tay ngồi đợi tiếng còi tập hợp sau khi đã ngủ chán cả mắt buổi sáng, thêm một phần buổi chiều. Thế là người thì lên đồi hái sim, người vào rừng tìm quả bứa. quả vả, người lang thang nhặt lá quế, nhành quế khô để ngày mai đun nước gội đầu, và làm sao mà nhớ được giờ tập trung (thời đó, ít ai có đồng hồ đeo tay, dù là người thành thị tản cư).
Vậy là phải làm sao cho thời gian cuối buổi chiều thành bận rộn đối với các chị, và bận rộn một cách vui vẻ. Chúng tôi tập hát, đọc dăm bài thơ, quanh quẩn rồi cũng "cạn vốn". Nhớ lại những buổi tối xưa trong gia đình, tôi liền đề nghị lần lượt mỗi người kể "cái gì hay hay", tuỳ ý. Sáng kiến được hưởng ứng, và thành công vượt quá điều tôi mong đợi. Các chị kể nhiều và hay nữa: truyện Tiếu lâm, Phan Trần, Tống Trân Cúc Hoa, đến cả truyện Kiều! Người thuộc đoạn này, người thuộc đoạn kia, đoạn nào không ai nhớ nổi thơ thì kể bằng văn xuôi. Mỗi chiều, các chị hào hứng tự gọi nhau quây quần, "để nghe đoạn tiếp của câu chuyện hôm qua".
Khi đến lượt mình khó lòng khai thác được kho tàng văn học dân gian như các chị, tôi đã kể Những người khốn khổ, lòng cũng lo lo chẳng biết các thính giả không phải là nữ sinh có thích tác phẩm như chị em tôi ngày trước hay không. Và tôi đã ngạc nhiên một cách thú vị, thấy các chị cũng yêu mến Fantine, Cosette, Éponine, cũng hồi hộp, thương cảm trước số phận của họ, không khác gì Kiều, Cúc Hoa, những nhân vật quen thuộc và thân thương của các chị. Điều đáng nói nữa, là mọi sự diễn ra tốt đẹp cho đến hết đợt tải lương, nhóm chúng tôi còn được tuyên dương! (chuyện ít ai ngờ vì những trục trặc trong thời gian đầu khiến mọi người trong Đoàn tuy chẳng nói ra song chắc cũng ngại dân thành phố thiếu tính kỷ luật).
Về sau này, khi tiếp tục đi học, tiếp tục đọc Hugo, càng ngày tôi càng hiểu hơn niềm cảm mến hồn nhiên, bột phát mà các chị trong nhóm dân công của tôi dành cho các nhân vật của Những người khốn khổ. Các chị đã nhìn thấy, và đã yêu thương, ở Fantine, Cosette, Eponine, cũng như ở Kiều, ở mẹ con Cúc Hoa... em bé côi cút, người thiếu nữ đang yêu, người đàn bà bị chà đạp, người mẹ hy sinh thân mình cho con, những người nghèo, những kẻ yếu, mà Hugo bênh vực, ngợi ca.
Và, một nguyên nhân nữa của sự tiếp nhận nồng nhiệt ấy, có thể và cần phải tìm ở đặc tính mỹ học của tác phẩm. Nói như nhà huy-gô-liêng uyên bác Guy Rosa mà chúng ta vinh dự được đón ở đây, "tính thẩm mỹ hiển nhiên nhất của Những người khốn khổ là được dành cho mọi chốn, mọi người. Điều đó thể hiện trong sự đa dạng của một cách viết (...) mang đủ mọi âm điệu văn chương, từ truyện kể hồn nhiên chất phác nhất đến văn xuôi đầy chất thơ được cấu tứ huy hoàng lộng lẫy nhất"... Đó là một tác phẩm "vừa thuộc về các thể loại và hình thức văn học bình dân - tiểu thuyết đăng tải nhiều kỳ hay tiểu thuyết trinh thám - đồng thời thuộc về các thể loại và hình thái của nền văn chương lớn - sử thi hay bức tranh lịch sử".
Tôi cũng hiểu rằng, nếu như Hugo đã không lên tiếng trước các hành động thực dân của Pháp tại Nam Kỳ (trong khi ông lên án những cuộc tấn công xâm lược ở Mêhicô và Quảng Đông) thì các nhân vật của ông đã nói, và đã hành động thay ông. Và Hugo, nhà văn yêu thích sự tương phản, hẳn sẽ rất hài lòng nếu biết được rằng chính Fantine, Eponine với nỗi đau nặng trĩu, chính Cosette với xô nước mà trọng lượng "làm căng cứng những cánh tay gày guộc" đã khiến cho chiếc đòn gánh trên vai những người con gái Việt Nam trở nên nhẹ nhõm!
L.H.S
(nguồn: TCSH số 163 - 09 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

  • THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.

  • NGUYỄN THỊ MỸ LỘCLà người biết yêu và có chút văn hóa không ai không biết Romeo and Juliet của Shakespeare, vở kịch được sáng tác cách ngày nay vừa tròn 410 năm (1595 - 2005). Ngót bốn thế kỷ nay Romeo and Juliet được coi là biểu tượng của tình yêu. Ý nghĩa xã hội của tác phẩm đã được thừa nhận, giá trị thẩm mĩ đã được khám phá, hiệu ứng bi kịch đã được nghiền ngẫm... Liệu còn có gì để khám phá?

  • NGUYỄN VĂN HẠNH1. Từ nhiều năm nay, và bây giờ cũng vậy, chúng ta chủ trương xây dựng một nền văn nghệ mới ngang tầm thời đại, xứng đáng với tài năng của dân tộc, của đất nước.