Edgar Poe với Hàn Mặc Tử

10:55 23/02/2009
NGUYỄN HỒNG DŨNGQuá trình “hiện đại hoá” văn học Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 diễn ra dưới sự tác động trực tiếp của văn học phương Tây. Gần một thế kỷ nay, khi nghiên cứu những tác động từ bên ngoài vào Việt Nam giai đoạn này các nhà ngữ văn chỉ chủ yếu nhấn mạnh đến ảnh hưởng của văn học Pháp. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến ảnh hưởng của nhà thơ Mỹ Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử, một đỉnh cao của phong trào “thơ mới”.


I. Edgar Poe ở Việt Nam .

1.
Edgar Poe
(1809 - 1849) là nhà văn Mỹ đầu tiên có tác phẩm được dịch sang tiếng Việt. Bài thơ Con quạ (The Raven) của ông được Nguyễn Giang dịch qua bản tiếng Pháp, được in trong cuốn Danh văn Âu Mỹ năm 1936 và là một bản dịch ra văn xuôi. Đến năm 1941, cũng chính Nguyễn Giang dịch và xuất bản một tập truyện kinh dị của Edgar Poe. Năm 1944, Vũ Ngọc Phan dịch và xuất bản tập Truyện kỳ lạ của Edgar Poe.
Trong bộ phận sách dịch từ phương Tây giai đoạn này, chúng ta biết rằng chủ yếu là sách Pháp, việc Edgar Poe được chú ý dịch như vậy có thể xem là một hiện tượng. Nước Mỹ, đối với đại bộ phận dân chúng Việt Nam bấy giờ, là một xứ xa xôi tận bán cầu Tây. Tuy vậy, đối với tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, học sinh, sinh viên, công chức thì nước Mỹ không đến nỗi quá xa lạ. Nhóm độc giả này thuộc loại có học vấn cao ở nước ta giai đoạn này. Họ là những người giỏi Pháp văn, và họ đọc các tác phẩm văn học Mỹ qua các bản dịch tiếng Pháp. Điều này các tầng lớp xã hội khác không làm được.

Edgar Poe rất được đề cao ở Pháp trong những thập kỷ cuối thế kỷ XIX. Ở Pháp sự nghiệp văn học của Edgar Poe được dịch và giới thiệu rất đầy đủ, và ông được xem là một trong những nhà khai sáng ra thơ hiện đại, mà trực tiếp là trường phái tượng trưng Pháp. Về văn xuôi, Edgar Poe là người đã đặt nền móng cho truyện trinh thám - hình sự, truyện kinh dị và là “một trong số thuỷ tổ của văn học viễn tưởng”. Như vậy, chủ yếu qua trung gian là Pháp ngữ mà độc giả Việt Nam bấy giờ biết đến Edgar Poe và biết đến vị thế của ông trong văn học phương Tây. Đó là một tiền đề cho sự tiếp nhận Edgar Poe ở nước ta.

2.
Ảnh hưởng là một quy luật phổ biến trong giao lưu văn hoá. Trong văn học, việc tiếp nhận và tiếp biến những yếu tố bên ngoài là điều không thể thiếu để phát triển. Tuy vậy, quá trình tiếp nhận này là hết sức phức tạp. Một nhà văn bao giờ cũng có những ảnh hưởng đến các nhà văn khác, nhưng mức độ cũng khác nhau. Có người chịu ảnh hưởng trực tiếp, có người chịu ảnh hưởng gián tiếp. Ngay ảnh hưởng gián tiếp có khi cũng trải qua mấy lần khúc xạ. Trong bài Văn học so sánh và vấn đề tiếp nhận văn học, Viện sĩ Hoàng Trinh đã nêu ra hai trường hợp tiếp nhận trong văn học: “Một quan hệ song phương không cân đối” và “Một quan hệ song phương tương đối cân đối”{1}. Ở trường hợp thứ nhất, sự tiếp nhận chỉ thuần tuý là một ý tưởng nào đó được gợi đến. Ở trường hợp thứ hai, đối tượng được tiếp nhận là một nhà văn có ảnh hưởng sâu rộng và chủ thể tiếp nhận qua sự khai thác các giá trị đã tạo ra những giá trị mới, “cả hai phía phát ra và tiếp nhận trong các hoàn cảnh khác nhau đều có vai trò sáng tạo và sản sinh rất quan trọng của mình”. Theo chúng tôi, những tác động của Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử thuộc trường hợp thứ hai.

Trong một số công trình nghiên cứu và các bài viết được in trước năm 1945 ở Việt Nam đã đề cập đến Edgar Poe, đó là Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, Đọc Tiểu thuyết Việt Nam cận đại của Đinh Gia Trinh, Lời tựa của Khái Hưng cho tác phẩm Vàng và máu (Thế Lữ)... Vào những năm 80, nhà thơ Chế Lan Viên trong các bài giới thiệu thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê cũng nhắc đến Edgar Poe. Ở những mức độ khác nhau và tuy còn rời rạc, thoáng qua, các tác giả trên đã nêu ra những ảnh hưởng của Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử và một số người khác. Đó chính là những gợi ý quan trọng cho chúng tôi trong bài viết này.

II. Ảnh hưởng của Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử.
Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân viết: “Hàn Mặc Tử rất nặng ảnh hưởng Baudelaire và qua Baudelaire ảnh hưởng nhà văn Mỹ Edgar Poe”; và Hàn Mặc Tử đã đi “từ thơ Đường đến Baudelaire, Edgar Poe “[2,31]. Như vậy, ảnh hưởng của Poe đến Hàn MặcTử là ảnh hưởng gián tiếp, thông qua Baudelaire.

1.
Thơ là phần tâm huyết nhất của con người nghệ sĩ trong Poe. Thơ là “tiếng lòng” là “cung đàn muôn điệu” của hồn ông, là của thế giới riêng ông. Những thi phẩm nổi tiếng của Edgar Poe là Cái chuông (The Bell). Cho Helen (To Helen), Con quạ (The Raven, Annabel Lee), Thành phố trong biển cả (The City of in the Sea)...
Thơ của Edgar Poe bi thảm và tượng trưng, nổi bật bởi âm thanh và nhịp điệu. Với trí tưởng tượng phong phú và có phần kinh dị, ông đã soi sáng những khía cạnh sâu kín của tâm hồn, những cái “bất định, ốm yếu và độc ác trong con người”, Edgar Poe chỉ quan tâm tới một nghệ thuật thi ca toàn mỹ. Trong thơ, Edgar Poe không hễ chú ý đến việc giải thích bàn luận các vấn đề xã hội hay giáo huấn con người, điều mà người ta thường gặp trong các tác phẩm của các nhà văn Mỹ thời kỳ này. Khi bàn về mục đích thơ ca, Edgar Poe viết: “Cứu cánh của nghệ thuật là cái đẹp, chứ không phải là sự thật...”, và “sự u buồn sầu mộng là một giọng thơ chính đáng nhất, cái chết của một người đàn bà đẹp là đề tài nên thơ nhất trong thế gian này”.

2. Các nhà thơ hiện đại Pháp như Baudelaire, Mallarmé, Valéry đã ca ngợi Poe là một thiên tài. Valéry quả quyết rằng Poe là một người sáng suốt nhất trong số các nhà lý luận đương thời khi bàn về nghệ thuật thi ca. Baudelaire đánh giá Poe là “nhà văn ưu tú nhất” và có “phong cách độc đáo một cách kỳ diệu”. Khi nhận xét về mối quan hệ giữa Poe và thơ ca hiện đại Pháp, sách Lược sử các nền văn chương viết: “Không có gì ngạc nhiên khi thấy Poe đã ảnh hưởng đến Baudelaire và Mallarmé, những người đã dịch tác phẩm của ông... Ông xứng đáng là nhà văn Mỹ đầu tiên có tầm cỡ thế giới” [3,108].
Tác động của Poe đối với Baudelaire và các nhà tượng trưng Pháp trước hết là ý thức vềmột nền văn học mới gắn với khái niệm “tính hiện đại”. Đây là ý thức thẩm mỹ về thế giới hiện đại, về thì hiện tại của tồn tại. Việc xuất hiện, hình thành những phẩm chất của tư duy thơ hiện đại là “sự phá bỏ mọi hình thức chết cứng ngăn cản sự tiến hoá của nghệ thuật, của những tình cảm, của những tư tưởng, của những phong tục” [4,21].

Trung thành với Edgar Poe, Baudelaire đã: “cắt đứt với truyền thống những lời cầu kỳ hoa mỹ dài dòng của chủ nghĩa lãng mạn” [5,299]. Công trình Suy luận về kết cấu của Poe đã đưa đến cho Baudelaire một nhận thức mới về tính thơ để định hướng cho sự sáng tạo. Đặc trưng đích thực của thơ là tượng trưng, cho nên không phải nhà thơ sáng tạo ra một thế giới giả, mà khám phá ra một “siêu hiện thực” trong thế giới”, đem lại cho tinh thần một sức mạnh đặc biệt khả dĩ nhìn thế giới không phải ở chỗ nó hiện ra, mà ở chỗ nó khải thị, tỏ lộ ra bằng những loại suy bất ngờ giữa những cảm giác và trong sự tương hợp sâu hơn nữa giữa cái cảm tính và cái tinh thần” [6,28].
Nếu thơ lãng mạn biểu hiện chủ yếu bằng hình tượng, hình ảnh tương phản thì thơ tượng trưng biểu hiện mối quan hệ bên trong giữa con người, sự vật với cái vô tận trong sự tương hợp. Chẳng hạn, tương hợp về cảm giác: ánh sáng - bóng tối, về ý niệm: hư -thực, về tâm trạng: cô đơn - tuyệt vọng, về liên tưởng: người đàn bà đẹp - cái chết trẻ, về tâm tính: cái độc ác - sự bất định, ốm yếu, về không gian: ngang - dọc, về màu sắc: đen - trắng, về màu vị: xanh - ngọt, về tu từ: âm thanh - nhịp điệu... Đó là mỹ học của Baudelaire, đã thấm sâu không chỉ vào thơ hiện đại Pháp mà cả thơ hiện đại trên khắp thế giới.

3. Sự gặp gỡ với Baudelaire, Poe là con đường giao hoà để thăng hoa trong đời thơ Hàn Mặc Tử.
Với thơ Đường, Hàn Mặc Tử, có Lệ Thanh thi tập. Dẫu có một số bài hay thì Lệ Thanh vẫn chìm trong biển thơ Đường của bao nhiêu người qua bao nhiêu đời đã đổ tràn. Với khuynh hướng tượng trưng, Hàn Mặc Tử có Đau thương, một kiệt tác trong nền thơ hiện đại. Cùng với Điêu tàn (Chế Lan Viên), Tinh huyết (Bích Khê), Đau thương đã tạo ra một dòng mới trong thơ Việt .
Hàn Mặc Tử bắt đầu đến với trường phái tượng trưng là những năm 36 -37, thời gian ông sinh hoạt với nhóm thơ Bình Định. Hàn Mặc Tử đã nghiên cứu rất kỹ về Baudelaire và tìm thấy ở đó một kiểu mẫu cho mình. Ông khẳng định: “Thơ văn không thể dung hoà với khoa học và lý luận (hoặc tôn giáo cũng thế) và thơ văn không thể lấy chân lý làm chủ đích được, thơ chỉ là thơ” (Quan niệm thơ). Từ đó “Thơ của ông bước vào trận xoáy lốc, hoà trộn giữa đời người đời thơ; giữa sự cảm nhận tận đáy lòng về khổ đau và hạnh phúc; giữa cứu cánh cầu mong những thứ siêu hình và những khát vọng riêng tư của chính cuộc đời sống hết mình trong bệnh tật, trong đắm đuối thi ca và trong những cảm nhận linh thiêng chỉ ông mới có giữa cõi huyền vi và cuộc đời trần thế” [7,61].

Cũng như Poe và Baudelaire, Hàn Mặc Tử đã mở ra một cách nhìn và cảm nhận riêng ở những con người có hoàn cảnh không bình thường. Ở họ, cái đau khổ thể xác và cái đau tâm hồn cài vào nhau, giằng xé cuộc đời, để từ đó trào ra những luồng thơ. Thơ Poe, Baudelaire, Hàn Mặc Tử đều bị ám ảnh bởi một thế giới siêu thoát, kinh dị, đầy chết chóc, lạnh lẽo với máu, xương, nước mắt... Đó là thế giới của những nỗi đau khắc khoải khôn nguôi, nơi con người đánh mất đi niềm vui sống mà bệnh tật và cô đơn đã gặm nhấm tâm hồn từ thuở còn thanh xuân. Đó là thế giới đã bị vỡ ra thành muôn mảnh mà không bao giờ còn ghép lại được. Tâm trạng này cũng là hệ quả của sự đổ vỡ đi đến hoài nghi và phủ nhận đối với lý trí trong văn học phương Tây. Từ giữa thế kỷ XIX, thơ đã xác lập vị thế của mình trong hệ thống tư duy bất thuận lý, chống lại những quan niệm về kiến thức phổ quát và tìm đến một thế giới bí ẩn, siêu hình chỉ có lĩnh hội bằng mặc khải và thần cảm. Đây là những ví dụ về sự gần gũi trong tư duy của họ:
Poe :     Những vầng trăng thượng tuần khổng lồ đã làm tắt những vì sao
            Bởi hơi thở thoát ra từ bộ mặt xanh xao của chúng.
                                                            (Thành phố trong biển cả)
Baudelaire:        Đôi khi lả lướt mơ màng, ả hằng trên mặt đất
                        Để một giọt lệ từ mắt nàng kín đáo nhẹ rơi
                        Một nhà thơ kính cẩn, ghét giấc ngủ của con người
                        Đưa bàn tay hứng giọt lệ mờ xanh nhạt
                        Óng ánh năm màu như một hòn ngọc thạch
                        Và dấu kín trong trái tim xa con mắt mặt trời.
                                                            (Nỗi buồn của mặt trăng)
Hàn Mặc Tử:    Ánh trăng mỏng quá không che nổi
                        Những vẻ xanh xao của mặt hồ
                        Những nét buồn buồn tơ liễu rủ
                        Những lời năn nỉ của hư vô.
                                                            (Huyền ảo)

4. Mối quan hệ với Baudelaire và Poe đã giúp Hàn Mặc Tử định hình một kiểu tư duy thơ và trên cơ sở đó đã sáng tạo một “thế giới hình tượng nghệ thuật kỳ dị” chưa từng có trước đó trong thơ Việt Nam . Nó lạ đến nỗi Hoài Thanh đã phải thốt lên rằng: “Ngót một tháng trời tôi đã đọc Hàn Mặc Tử. Và tôi đã mệt lả... Vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến càng đi xa càng ớn lạnh” [8,196].
Đọc thơ Hàn Mặc Tử không chỉ cảm nhận, phân tích, bình phẩm, đánh giá theo những quy chuẩn thông thường. Ở các câu thơ “trăng nằm sóng soãi trên cành liễu”, “người trăng ăn vận toàn trăng cả”, “ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ”, “ta nằm trong vũng trăng đêm ấy”, “thuyền ai đậu bến sông trăng đó”... ta thấy từ vẫn là những từ đó, trăng vẫn là vầng trăng đó, thế nhưng lại thấy lạ vô cùng, biến hoá vô cùng.

Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng nói “siêu nghĩa”, các từ được dùng trong cấu trúc câu thơ và bài thơ bao giờ cũng tương ứng với tâm trạng, có sức biểu hiện cao độ và sâu sắc, từ một từ này có thể gợi nên nghĩa của một từ khác. Có thể nói, Hàn Mặc Tử đã làm một cuộc cách mạng ngôn từ trong thơ tiếng Việt.
Hàn Mặc Tử đã cùng những người cùng thế hệ với ông rời bỏ bến bờ cũ để tìm những dòng chảy mới. Trên hành trình đó, Hàn Mặc Tử đã tiếp cận với nhiều nguồn thơ, nhưng Baudelaire và Poe là những người mà Hàn Mặc Tử đã tiếp nhận nhiều nhất. Đề cập đến ảnh hưởng của Poe đối với Hàn Mặc Tử thông qua Baudelaire là một điểm nhìn để hiểu kỹ hơn về những trải nghiệm và những sáng tạo lớn lao của Hàn Mặc Tử. Và theo chúng tôi, Poe không chỉ ảnh hưởng đến Hàn Mặc Tử mà còn ảnh hưởng đối với thơ Bích Khê, Chế Lan Viên và văn xuôi Thế Lữ... Bài viết này mới chỉ là những suy nghĩ bước đầu về vấn đề này.
N.H.D

(nguồn: TCSH số 194 - 04 - 2005)

 

 



---------------------
[1]. Hoàng Trinh - Văn học so sánh và vấn đề tiếp nhận văn học. Tạp chí Văn học số 4, 1980.
[2]. Hoài Thanh, Hoài Chân - Thi nhân Việt Nam (tái bản), Nxb Văn học, Hà Nội, 1998.
[3]. Pierre Gioan (chủ biên) - Lược sử các nền văn chương, tập V.Libraire Aristite, Paris 1961.
[4]. Trần thị Mai Nhi - Văn học hiện đại - Văn học Việt Nam, giao lưu, gặp gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội, 1994.
[5]. Đặng Thị Hạnh - Văn học Pháp thế kỷ XIX, Nxb Ngoại văn, Hà Nội, 1990.
[6]. Trần Thị Mai Nhi: Sđd.
[7]. Ngô Văn Phú - Hàn Mặc Tử một tâm hồn thơ dị biệt (trong tuyển tập Hàn Mặc Tử hôm qua và hôm nay), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995.
[8]. Hoài Thanh - Hoài Chân.Sđd.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ TỰ LẬPTrong thời gian làm luận án ở École Normale Supérieure de Fontenay/ Saint Cloud , tôi được nghe một câu chuyện thú vị. Trong nhà giam nọ, đám tù khổ sai, sau mỗi ngày lao động như trâu ngựa dưới đòn roi của cai ngục, chỉ có một thú tiêu khiển là nghe một người trong bọn họ kể chuyện tiếu lâm.

  • HỒ THẾ HÀTrần Vàng Sao là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ anh là tiếng nói giàu nhiệt huyết, xuất phát từ đáy lòng, hướng đến mọi người bằng giọng điệu giãi bày, tâm tình, chia sẻ. Anh sáng tác không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm của anh để lại dấu ấn thi pháp độc đáo, đặc biệt ở việc xây dựng tứ thơ và kiến trúc bài thơ, ở hình ảnh và sức liên tưởng bất ngờ.

  • NGUYỄN HUỆ CHI     Trần Thanh Mại (1908-1965) là một nhà văn xứ Huế, một tên tuổi trong giới nghiên cứu, phê bình và sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám. Những cuốn sách ông viết rải rác trong vòng 30 năm như Tuy Lý vương, Hàn Mạc Tử, Trông giòng sông Vị, Tú Xương con người và nhà thơ... đã từng gây được ấn tượng lúc mới ra đời và đến nay vẫn còn nhiều phần giá trị. Những phát hiện của ông về Hồ Xuân Hương, Miên Thẩm đã từng gây xôn xao một thời mà sự tiếp nối của người sau cũng chưa thể nói là đã vượt qua.

  • ĐẶNG TIẾNTừ điển Nghệ Thuật Hát Bội Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Lộc chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, ấn hành năm 1998, gồm non 700 trang khổ lớn 15x23cm, in đẹp, bìa cứng tổng hợp đầy đủ kiến thức về ngành ca kịch hát bội, còn gọi là hát bộ, hay tuồng, hay tuồng cổ.

  • THÁI DOÃN HIỂUGiữa ngổn ngang những dữ kiện, con số, tiền nong, ngành Ngân hàng Việt vẫn hào hiệp tặng cho thi đàn ra một hồn thơ tinh tế: Nguyễn Ngọc Oánh.Trong thi sĩ Nguyễn Ngọc Oánh có hai con người: một trẻ và một già!

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1989, báo Văn nghệ tổ chức cuộc thi thơ kéo dài trong 2 năm, tôi có gửi 5 bài thơ dự thi. Thơ gửi đi rồi, chưa mong được giải, chỉ mong được in báo Văn nghệ một vài bài vì trước đó tôi cũng đã nhiều lần gửi báo Văn nghệ nhưng chỉ được in một bài thơ “Giọng Nghệ”.

  • TRẦN THÁI HỌC(Nhân đọc Sông Hương phê bình và đối thoại - Nxb văn hoá thông tin - 2003)

  • MAI BÁ ẤNNgoài sáng tác, hơn mười năm trở lại đây, Thanh Thảo còn xuất hiện với tư cách là một người viết tiểu luận - phê bình được bạn đọc rất chú ý bởi giọng văn sắc sảo với những phát hiện độc đáo, mới mẻ. Nhìn chung, phong cách viết tiểu luận-phê bình của Thanh Thảo khá nhất quán nhằm mục đích tìm ra cái hay cái độc đáo của tác phẩm văn học mà không ồn ào tranh luận, không nặng nề về lý thuyết nhưng có độ bền về tính triết lý.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNPhê bình văn học là một hình thái vận động của đời sống văn hóa văn học. Nó không phải là một thể loại văn học. Nó gắn bó huyết mạch tất yếu với vận động sáng tạo - hưởng thụ văn học.

  • HƯƠNG GIANG - PHẠM PHÚ PHONGLịch sử nói chung phán xét những gì đã qua, nhưng lịch sử nghệ thuật thì  phán xét những gì còn lại. (Thái Bá Vân)

  • VÕ TẤN CƯỜNGCon đường của thi ca và cái nhìn của nhà thơ thời hiện đại đang hướng tới tầm cao mới và cả chiều sâu thẳm bí ẩn của vô ngã ẩn khuất dưới bao biến động dữ dội của những thể chế chính trị, giáo lý và các phát minh khoa học kỹ thuật.

  • PHONG ĐIỆPXã hội hoá giải thưởng - và chuyện kiếm tiền “nuôi thơ” thời bão giá

  • CHÂU MINH HÙNGLối viết chỉ là Tự do trong một khoảnh khắc. Nhưng đó là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất của Lịch sử, bởi Lịch sử luôn luôn và trước hết là một lựa chọn và những giới hạn của lựa chọn ấy.                                      (R. Barthes, Độ không của lối viết)

  • TRẦN THIỆN KHANHTích nhân/  dĩ thừa/  hoàng hạc khứThử địa/  không dư/  Hoàng Hạc lâuHoàng hạc/ nhất khứ/  bất phục phảnBạch vân/ thiên tải/ không du du…

  • PHẠM THỊ THÚY VINHThơ Lâm Thị Mỹ Dạ rất giàu hình ảnh. Thế giới hình ảnh trong thơ chị vừa đậm sắc màu hiện thực, ngồn ngộn hơi thở cuộc sống vừa mang tính biểu tượng cao. Điều đó đã thể hiện tài năng và sự khéo léo của nhà thơ, nhằm làm cho những bài thơ của mình không chỉ dừng lại ở những lời thuyết lí khô khan, trừu tượng. Thế giời hình ảnh bao giờ cũng gợi ra trong trí tưởng tượng của người đọc nhiều liên tưởng bất ngờ và thú vị, làm cho lời thơ thêm mượt mà, trong sáng.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   (Tiếp Sông Hương số 11-2008)Bản thể con người chỉ cấu trúc bằng cảm giác và những gì là biến tướng khả dĩ của cảm giác mà không từ bỏ cấu trúc thiên định bao gồm kết cấu thực và kết cấu ảo của cảm giác. Nếu hình dung kết cấu thực là trạng thái mô phỏng thế giới, nghĩa là cái quan hệ hấp dẫn giữa xung động thần kinh não bộ con người với xung động tiếp nhận thế giới, thì chúng ta hình dung được kết cấu ảo chỉ là sản phẩm thuần tuý do xung động nội tại của thần kinh não bộ con người.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.

  • CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.

  • NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.

  • PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.