Nói thế vì còn có Dương Tường của báo, của thơ, của văn. Nhưng Dương Tường dịch là được biết đến nhiều nhất. Nhắc tên Dương Tường, bạn đọc cả nước đều biết đó là một dịch giả. Và đều tỏ lòng khâm phục tài dịch của ông.
Khâm phục Dương Tường, trước hết vì sự nghiệp hơn nửa thế kỷ cặm cụi cần mẫn trên từng con chữ của hai ngôn ngữ Anh, Pháp chuyển ngữ sang tiếng Việt. Cái vốn ngoại ngữ ông có chỉ chút ít là học ở trường thời Pháp, còn lại phần lớn là nhờ tự học. Vậy mà ông đã can đảm tích lũy và trau dồi hai thứ tiếng ngoại quốc, cùng với lòng yêu tiếng Việt vô bờ, tự tin đem về cho dân mình một phần kho tàng văn chương thế giới với hơn năm mươi tác phẩm đã được dịch ra.
Khâm phục vì những tác phẩm ông dịch đều là những của khó và của hay, từ những tay bút cự phách của nhiều nền văn học. Ông dịch kịch Shakespeare, kịch A. Chekhov khi mới trình làng dịch thuật. Rồi đến Anna Karenina của Lev Tolstoy. Sau đó là những Cuốn theo chiều gió, Đồi gió hú, Alexis Zorba, Bức thư của người đàn bà không quen biết, Cội rễ, Kafka bên bờ biển và nhiều nữa.
Ông dịch Patrick Modiano (Quảng trường Ngôi Sao, Phố những cửa hiệu u tối) từ khá lâu trước khi nhà văn Pháp này được giải Nobel (2014). Ông dịch hai nhà văn được Nobel khác là Albert Camus (Người dưng) và Gunter Grass (Cái trống thiếc). Ông dịch Con đường xứ Flandres của C. Simon và Lolita của V. Nabokov, những cuốn tiểu thuyết rất thách thức "tay nghề" dịch giả.
Ở tuổi tám mươi, ông còn dũng cảm cùng mấy dịch giả đồng lứa bắt tay vào dịch bộ tiểu thuyết kinh điển cực khó dịch của văn học Pháp và thế giới thế kỷ XX - Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust, trong đó phần ông dịch là hai cuốn đã xuất bản (Bên phía nhà Swann và Dưới bóng những cô gái đương hoa).
Ngày 3/9/2019 tại Trung tâm Văn hóa Pháp (L'Espace, TP.Hà Nội), khi vừa bước vào tuổi tám mươi tám được một tháng, ông đã ra mắt bản dịch mới - cuốn tiểu thuyết Chết chịu của một nhà văn phức tạp gây chia rẽ nhất nước Pháp thế kỷ XX - Louis-Ferdinand Céline.
Khâm phục Dương Tường, còn bởi sự nghiêm cẩn của ông trong công việc. Dịch thuật, nhất là dịch văn chương, không phải việc chuyển ngữ đơn thuần, mà còn là sự tái hiện toàn bộ tư chất nhà văn của một tác giả, từ một môi trường ngôn ngữ và văn hóa này qua một môi trường khác, sao cho tác giả và tác phẩm ở văn bản nguồn, qua sự khúc xạ ngôn ngữ, không bị biến dạng và biến mất ở văn bản dịch.
Dương Tường suốt đời hành nghề dịch đã cố gắng cao nhất cho mục tiêu nghề nghiệp này. Ông rất cầu thị trong nghề, sẵn sàng nhận mình là "dốt" khi có một lỗi sai nào đó được độc giả chỉ ra, nhưng kiên quyết không bao giờ chịu tiếng là dịch ẩu. Với ông, dịch một từ có khi mất cả tuần lễ, vì hiểu đúng nghĩa từ đó ở bản gốc thôi chưa đủ, mà còn phải tìm được từ tiếng Việt diễn tả chính xác nhất, sinh động nhất nghĩa đó trong bản dịch.
Khâm phục ông, rốt cuộc lại chính là ở đấy: tình yêu tiếng Việt. Không yêu và không giỏi tiếng Việt thì đừng dịch văn chương, dù có giỏi ngoại ngữ đến mấy, ông tâm niệm thế. Ngay cái tên Chết chịu (Mort à crédit) ở bản dịch Céline mới ra, đã cho thấy ông thấu tiếng nước mình đến thế nào. “Tiếng Việt đẹp lắm, hay lắm, sao bây giờ người ta hành hạ, tàn phá nó khủng khiếp quá, nhất là lớp trẻ”, ông đã kêu lên như thế với độc giả tại cuộc giao lưu tối 3/9. Người dịch nhiều tác phẩm văn chương nổi tiếng thế giới lại chính là người rất căm phẫn trước tình trạng người ta sính tiếng nước ngoài, nói và viết chen ngoại ngữ vào tiếng Việt. Không chỉ tỏ thái độ bức xúc, ông còn hành động.
![]() |
Từ trái qua: nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, dịch giả Dương Tường và tiến sĩ văn học Phùng Ngọc Kiên |
Ở tuổi gần chín mươi, sau khi đã dịch nhiều tác phẩm văn chương thế giới, Dương Tường muốn trả nợ tiếng Việt. Ông đọc lại Truyện Kiều của thi hào dân tộc Nguyễn Du để thấm thêm cái lung linh ảo diệu của tiếng Việt bao năm chảy trong mạch sống dân tộc. Càng đọc ông càng say tiếng nước mình. Và ông đã quyết định dịch Kiều ra tiếng Anh. Tuổi cao, mắt mờ, ông phải phóng to bản Kiều trên máy tính để đọc rồi ghé sát mắt vào tờ giấy viết ra từng câu dịch. Sau hơn một năm, ông đã hoàn thành bản dịch Kiều 3254 câu thơ từ tiếng Việt sang tiếng Anh. Hiện ông vẫn đang tiếp tục hoàn thiện bản dịch này.
Vậy là, Dương Tường chưa chịu "rửa tay gác kiếm" dịch thuật như nhiều người cứ ngỡ sau cuộc ra mắt Chết chịu vừa rồi. Ông hẹn sẽ còn tái ngộ độc giả ở lần ra mắt bản dịch tiếng Anh Truyện Kiều sắp tới.
Chịu ông, một chàng Ngự lâm Nhâm thân (1932)! Trong con người nhỏ bé, gầy gò đó là cả một trữ lượng tinh thần to lớn đã tỏa ra trên hàng vạn trang sách dịch đặc sắc, và lan truyền cho những người xung quanh, nhất là những người trẻ tuổi - niềm vui sống, vui chữ nghĩa. Năm ông tám mươi lăm tuổi, tôi đã có mấy vần tặng ông: "Tự do Dương Tường trang sách dịch/ Sách dịch cho ta được gặp người/ Người đời khác màu da tiếng nói/ Tiếng nói chung là tiếng Con Người".
Theo Phạm Xuân Nguyên - Phụ nữ TPHCM
Phan nhân 1972 ( Hồi ức K15 trường Chuyên Phan Bội Châu Nghệ Tĩnh - NXB Hội Nhà văn, tháng 7/2019 ) có lẽ là một trong những cuốn sách thú vị nhất về tuổi học trò mà tôi từng đọc.
Ngày 6-7, tại Hà Nội, buổi giao lưu ra mắt bút ký chính luận “Một thời Đông Bắc” của tác giả Vũ Mão và ký sự tiểu thuyết “Mãi mãi một thời Thiếu sinh quân” của nhà văn Ma Văn Kháng do NXB Kim Đồng tổ chức đã thu hút sự tham gia của đông đảo các nhà văn, nhà phê bình văn học, các cựu học viên trường Thiếu sinh quân Việt Nam.
Ra mắt tập thơ đầu tay năm 2003, đến nay, nhà văn Nguyễn Văn Học đã xuất bản 15 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ.
Văn học Nhật Bản đang để lại dấu ấn sâu đậm và mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng. Bên cạnh dòng văn học kinh điển gắn liền với những tác giả có ảnh hưởng trên thế giới, thị trường xuất bản trong nước còn chứng kiến cuộc “đổ bộ” của những tác giả đương đại với số lượng tác phẩm không hề nhỏ.
Tôi vẫn luôn nghĩ rằng, đối với người nghệ sĩ, cô đơn tự xác lập hay cô đơn do ngoại cảnh, đó đều là những đặc ân. Bởi nhờ có cô đơn làm chất xúc tác, cảm thức sáng tạo mới bùng vỡ nơi người nghệ sĩ...” - Nhà văn Đỗ Chu cũng từng bảo: “Nghệ sĩ cô đơn được càng tốt!”.
Từ ba nguồn tư liệu chính sử, dã sử và dân gian, các nhà văn đã có cơ hội bung trổ trí tưởng tượng và khả năng hư cấu để cho ra đời những áng văn chương sinh động, hấp dẫn viết về lịch sử. Hai tiểu thuyết lịch sử mới ra mắt công chúng là “Từ Dụ Thái hậu” của Trần Thùy Mai và “Thiên địa phong trần” của Hà Thủy Nguyên.
Nhân kỉ niệm 62 năm thành lập (17/6/1957 – 17/6/2019), Nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt ấn bản mới tập truyện Dưới chân Cầu Mây của nhà văn Nguyên Hồng. Tập truyện gồm ba truyện đặc sắc dành cho thiếu nhi: Đôi chim tan lạc, Dưới chân Cầu Mây vàCháu gái người mãi võ họ Hoa.
NXB Hà Nội và Thư viện Hà Nội tổ chức lễ ra mắt cuốn sách “Thời cuộc và Văn hóa” của nhà báo Hồ Quang Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội nhà báo Việt Nam
Nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá Huy Cận là người đem tâm nguyện “làm bục nhảy đưa sự sống lên cao”. Nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu có dịp quần tụ nhớ về hồn thơ Huy Cận dịp 100 năm ngày sinh của ông.
“Ba năm tồn tại. Thời gian không dài. Nhưng kỷ niệm một thời niên thiếu tươi đẹp hào hùng trong gian khổ làm sao có thể quên!”. Sau hơn 70 năm, khi những mảnh ký ức bắt đầu mờ nhòa, nhà văn Ma Văn Kháng đã “gạn lấy chút sức lực còn lại”, “rờ rẫm nhớ lại những gì đã trải qua”, để tái hiện chân dung thế hệ “măng non cách mạng” giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp.
Nhà văn Trần Thùy Mai vừa ra mắt bộ tiểu thuyết lịch sử “Từ Dụ thái hậu” sau một thời gian dài im tiếng. Điều thú vị, cuốn sách đề cập đến lịch sử nhưng được tác giả viết bằng văn phong thuần Việt, với ngôn ngữ nhuần nhị để thu hút độc giả trẻ.
Có thể nói, tiểu thuyết gia hiện đại đầu tiên của văn học Việt Nam chính là nhà văn Hồ Biểu Chánh. Với kho tàng đồ sộ 64 cuốn tiểu thuyết, ông được mệnh danh là “người kể chuyện đời” đầy lôi cuốn và có cá tính.
Giữ một vị trí khiêm tốn trong đời sống văn chương, nhưng thể loại phi hư cấu thời gian qua vẫn đều đặn đến với độc giả. Thậm chí, nhiều tác phẩm tạo được tiếng vang lớn, được in hàng chục ngàn bản. Chỉ có điều, trong những bảng vàng văn chương trong nước, hiếm khi những tác phẩm thuộc thể loại phi hư cấu được xướng tên.
Nhân dịp kỷ niệm 65 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2019), NXB Kim Đồng vừa cho ra mắt tập thơ “Điện Biên chiến thắng, Điện Biên thơ” của Đại tá, nhà thơ Ngô Vĩnh Bình tuyển chọn và giới thiệu.
Sau 65 năm, những kinh nghiệm lịch sử, bài học quý giá từ chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn được học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Không chỉ là góc nhìn riêng của mỗi bên, việc hợp tác để khai thác khối tư liệu, tài liệu lưu trữ - di sản chung của hai dân tộc Pháp - Việt nhằm có thêm sự đối chứng, từ đó làm rõ hơn lịch sử.
“ĐIỆN BIÊN PHỦ: 13/3-07/5/1954” là cuốn sách chuyên khảo của Tiến sĩ, Đại úy người Pháp Ivan Cadeau. Cuốn sách cung cấp các tài liệu lưu trữ của Pháp về sự kiện Điện Biên Phủ và chiến tranh tại Đông Dương, trong đó có nhiều tài liệu chưa từng công bố tại Việt Nam.
Ngày 30/4/1975 mãi là một ký ức tồn tại sâu thẳm trong tâm trí của những người đã trực tiếp chứng kiến. Đặc biệt là nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh, người đã dành gần như cả cuộc đời cầm bút của mình để văn bản hóa lại những ký ức lịch sử về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước một thời của dân tộc Việt Nam.
Với sự nhân từ, đức độ, Từ Dụ thái hậu được dân gian lưu truyền là người phụ nữ quyền lực có sức ảnh hưởng to lớn dưới triều nhà Nguyễn. Từ cảm hứng ấy, nhà văn xứ Huế Trần Thùy Mai đã viết Từ Dụ thái hậu - một trường thiên tiểu thuyết gồm 69 chương, có thể xem là tiểu thuyết lịch sử dạng “cung đấu” hiếm hoi của văn học đương đại.
Sáng ngày 22/4/2019, tại thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành buổi toạ đàm khoa học, giới thiệu công trình Nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học ở Nam Bộ thời kì 1865-1954.
Sách của nhà phê bình khơi gợi tình yêu cuộc sống qua những vẻ đẹp giản dị, nhân văn.