NGUYỄN QUANG HUY
Phạm Thái (1777 - 1813) là một khuôn mặt khá đặc biệt trong thơ văn Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Đặc biệt trong thời đại ông sinh ra và ứng xử với nó; đặc biệt trong cách thể hiện thế giới nghệ thuật nhiều cá tính, nhiều gương mặt; đặc biệt trong vũ trụ mộng trước cuộc đời; đặc biệt trong cách thế tồn tại tài hoa mệnh bạc của ông; đặc biệt hơn là thơ văn của ông chưa được lưu ý phân tích ở chiều sâu tâm lí, chiều sâu thẩm mĩ.
Truyện thơ "Sơ kính tân trang" của Phạm Thái - Ảnh: internet
Cũng từ đây, bộ mặt nhiều ủ rũ của chiếc áo khoác trên con người - lịch sử cần nhường chỗ cho sự sặc sỡ của con người - sinh thể nghệ thuật. Trên cơ sở đó, với tinh thần kiểm thảo những nghiên cứu đã có, trong bài viết này, chúng tôi hướng đến nghiên cứu thơ văn Phạm Thái trong một cái nhìn nghiêng về tâm lí học phân tích chiều sâu và cái hồn mộng của ông trước cuộc đời. Đó cũng là con đường đi tìm các khuôn mặt hiện diện của một Phạm Thái còn ẩn khuất trong nghệ thuật thơ văn.
1.
Phạm Thái là khuôn mặt nhiều đặc biệt trong một giai đoạn văn học cụ thể - giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Trong cuộc đời, Phạm là một kẻ “ngang tàng tính mệnh” (sống được 37 năm)(1) nhưng lại nhiều tham dự trước cuộc đời, mà đã tham dự thì luôn luôn đòi buộc các liên thuộc mà thi sĩ phải lãnh nhận; mỗi liên thuộc ấy tạo lập những bổn phận mới, nói theo V. Turner, là “những xác nhận bản ngã” và theo đó là quá trình chuyển hóa - chuyển hóa bên trong, nhằm giải phóng các tiềm năng nội tại trong bản thân(2). Trong thơ văn, Phạm là người tài hoa, lấy cái ngông làm tài - một đặc thù của cá tính sáng tạo thời trung đại Việt Nam(3). Nhưng khi khẳng định mình qua cái tài, cũng đồng thời họ sống trải với một hệ quả kép: vinh/ nhục, lạc quan/ thất vọng. Thơ văn ông nghiêng hẳn về trữ tình, lấy tình để nuôi mộng và phần lớn mang tính chất tự truyện. Trước thời đại, ông bướng bỉnh đi ngược chiều, tỏ rõ cá tính, thái độ và hành động chống đối cơ nghiệp mới của triều Tây Sơn, Nguyễn triều.
Vấn đề đặt ra là, ông đã diễn tả qua thơ văn của mình sự tham dự vào nhiều cuộc sống khác nhau, nhưng mọi thứ đều thất bại. Ông là một kẻ thua cuộc, kẻ trắng tay với nợ tang bồng. Điều này khiến ta nghĩ đến suy tư về thân phận con người của G. Marcel, rằng, con người bước vào cuộc đời là một kẻ lữ hành muôn thuở, một viễn khách, các ý nghĩa sống lần lượt rời bỏ mình, mà theo đó, các tiếng nói trong nghệ thuật cất lên nhiều ý nghĩa đau đớn. Phạm thuộc trong số đó. Những bước đường của thi sĩ đất Bắc Ninh này là những bước cảm nghiệm khác nhau mà mỗi cảm nghiệm là một chiều kích của sự phóng tâm. Và ở đây, con người trong ý nghĩa viên mãn, là một kẻ tự vượt để trở nên chính mình. Trong hướng đó, chúng tôi nhận ra rằng còn một giả thiết khác, các ngả khác nhau của đường mơ về Tự ngã trong mỗi con người khi thể hiện tâm giới qua nghệ thuật. Đó cũng là sự tập trung khai thác của bài viết này.
2.
Tự ngã (Self)(4) được định nghĩa như là sự hướng đến “sự thuần nhất”, và “tròn đầy” của con người, gồm cả vật chất và tinh thần, thể xác và tâm linh. Trong đường vào nội tâm, tự ngã là “trọng tâm siêu việt” (M. Stein) của mỗi cá thể. Nó là “mẫu tượng cơ bản cuối cùng trong tiến trình thực hiện căn tính bản vị”(5) con người. Những hình ảnh của tự ngã là các mộng tưởng nghệ thuật được “phóng ngoại”, là những năng lực tâm lý thể hiện các chiều sâu của bản thể hiện hữu. Nó là một hành trình, mỗi giai đoạn khác nhau của cuộc đời, đặc biệt là trong những khúc quanh của các biến cố, với những nét biểu hiện khác nhau, đều cho thấy các căn tính bản vị của mình (Phạm mồ côi mẹ lúc 2 tuổi, bạn thân mất, 20 tuổi - điểm tựa từ người cha sụp đổ, lí tưởng phù Lê còn lại giấc mộng ảo, Quỳnh Như chết… Theo C. Jung, đó là những va chạm giữa tâm thần và thế giới (va chạm hướng ngoại) tạo ra các thức nhận nội giới. Các chiều hướng khác nhau của nó sẽ dẫn đến những bước phát triển khác nhau, vì trong sự đối mặt với mỗi cảnh huống, sẽ có những giải pháp nào đó thích ứng giữa cấu trúc tâm sinh lí của cá thể với môi trường, cũng có thể tạo nên các va chạm bên trong, tạo ra các tưởng tượng kinh nghiệm nội tâm lạ lùng. Suy xét về tự ngã, cũng đồng thời khơi lên những vùng tâm thức khác nhau trong mỗi một con người, do đó, là xem xét các tầng thức nhận về bản thân mình. Văn chương lại là nơi thể hiện và cất giấu những điều đó. Với văn học tiền hiện đại, cá tính ấy - sự phóng ngoại của tâm thức luôn thuộc về hai mô hình: chuẩn/ phi chuẩn. Với giai đoạn Phạm sinh sống, con người luôn hướng đến các mẫu hình: “anh hùng”, “kì khí”, “tài tình”, và cả “nghịch tử” nữa(6). Những mẫu hình này làm nên những đối trọng với các cách biểu hiện “ngã” trước đó.
3.
Thế giới lí tưởng của Phạm Thái, trước tiên phải là mộng về cựu triều (Lê triều)(7). Nói mộng vì thời điểm sống của ông 1777 - 1813, là khi những ba động của lịch sử đang đi vào quỹ đạo khác, mà mỗi một “vẫy vùng” có nguy cơ trở nên bi đát. Nhưng “giấc mộng phù Lê” với Phạm là cả một nghĩa cử sống còn (lí tưởng trung quân). Thực ra, trong thời gian từ thế kỉ XVI đến XVIII, thể chế chính trị Việt đi vào danh nghĩa kì lạ bậc nhất, là một thực thể “lưỡng đầu chế”, nghĩa là từ rất sớm, từ 1527, nó đã không còn “chính danh” nữa(8). Những thôi thúc từ bên trong ông là mãnh liệt: Ta hăm hở chí trai hồ thỉ để tìm “nếp hoàng đồ”, nguyện một lòng vì “ngô quân”, “cẩn giữ lẽ thường; tin cầm nghĩa cả”. Ông gọi mình là “đá khiết bạch khó phai màu siểm nịnh”, cũng vì thế, Phạm tự nhận mình là “người căm gan chưa trọn đạo quân thần, gương trung nghĩa liếc sương nghiêm lóng lánh”(9). Thái độ ứng xử này hoàn toàn dễ hiểu vì trên hành trình này, ông không phải là kẻ cô độc. Giấc mộng của Phạm là nối nghiệp cha, nhưng cũng một phần là máu huyết của mình như một mẫu hình của thời đại. Sinh ra, ông cũng nhận lãnh cái phận sự như Nguyễn Công Trứ (sinh 1778, hơn Phạm một tuổi, cha ông cũng không cộng tác với tân triều) là đem “thân”, “chí” trai để “xẻ núi lấp sông”, luôn canh cánh vay trả “nợ quân thân”, “nợ nước”. Trong thời đại đó, suốt hai thế kỉ (XVII và XVIII) lần lượt xuất hiện mẫu nhân vật “anh hùng thời loạn” trong hàng loạt tác phẩm: “Ngọa long cương vãn”, “Chim trong lồng”, “Trương Lương hầu phú”… Sống với lí tưởng, Phạm là con người của hoạt động, coi hành động là niềm say mê của đời mình. Trong loạn lạc, ông thích “hành” hơn “tàng”. Đó là một cuộc đời đầy sóng gió và sôi nổi, “cuộc đời của một tráng sĩ mang hoài bão và lí tưởng của một vị anh hùng cứu quốc”(10). Để chống Tây Sơn, Phạm Thái tham dự nhiệt thành trong đảng Tiêu Sơn với tư cách “cựu quân sư của Nguyễn Đoàn, phó đảng trưởng kiêm chức quân sư của đảng Tiêu Sơn”(11). Ông viết bài “Quân yếu” bàn luận thế đánh và giữ cho nghĩa quân(12). Chính giấc mộng này đã tạo nên hình tượng nhân vật lí tưởng của Phan Khắc Khoan, Khái Hưng với cái nhìn đầy cảm khái trong kịch Phạm Thái, Tiêu Sơn tráng sĩ: Ta tráng sĩ hề! Gặp thời loạn lạc/ Như cá gặp nước hề! Ta vẫy vùng(13). Có nhìn nhận như vậy mới hiểu mộng của ông khác với con đường của Nguyễn Huy Lượng đến mức nào trong “Chiến tụng Tây Hồ phú”. Có thể nói, tham dự vào xã hội, Phạm là một “khách chinh phu”, một cá tính riêng, một nhân cách hành động. Với Phạm, tham dự vào ý thức Nho giáo, trong giấc mộng về vương quyền, mượn lời A. Niel, ông vừa tỏ khí “anh hùng” nhưng đồng thời là “nạn nhân khốn khổ” của ý thức đó.
4.
Nhưng, đến cuối thế kỉ XVIII, “giấc mộng anh hùng” chỉ còn là “hồi quang” của một “bóng hình”(14). Thân thế trót hẹn với “tang bồng” đành phải “bỏ lỡ”. Bước chân phiêu lãng của một kẻ sĩ giờ bén dấu Phật. Phạm trở thành “khách tầm thanh”, tự nhận “Sãi tôi nay: gặp thuở minh thời, sinh lầm nam tử”(15). Với Phạm Thái - Phổ Chiêu thiền sư là một cảm nghiệm mới, cảm nghiệm siêu hình, mang thị kiến tôn giáo. Các bài “Đề chùa Tiêu Sơn”, “Tờ phả khuyến của chùa Nghiêm Xá”, “Tờ phả khuyến lễ kết hạ”… đều thể hiện ít nhiều cảm nghiệm: “Đạo giải quá thấy lời kinh thủy sám, nước cam lồ nhờ rảy sạch bụi trần; chữ tu nhân nghe câu kệ Kim Cương, gươm bảo tuệ mượn dứt không niềm tục”(16). Nếu nhìn nhận nhận thức của Khổng giáo về thân phận con người theo năm thị kiến: thi ca, chính trị, xã hội, siêu hình, lịch sử thì một cá nhân có thể cùng lúc là một sinh thể thi ca, một sinh thể xã hội, sinh thể chính trị, sinh thể lịch sử và một sinh thể siêu hình(17).
Bước chân của Phạm đến với Phật giáo trong hình hài của Phổ Chiêu thiền sư là chiều kích của cảm nghiệm tôn giáo. Qua khảo sát, phạm vi sử dụng các danh ngữ Phật giáo trong thơ văn Phổ Chiêu là khá phổ biến: trai giới, bát nhã, Ba la (Ba la mật), hương giải thoát, hoa ưu đàm, Đức Thế Tôn, Phật Bà, Mục Liên, máy thiền… theo chúng tôi, trong cái nhìn hành trình của bản ngã con người, mang một ý nghĩa khác(18). Nó là chiều kích mới, dù ít hay nhiều, trong sự tìm gặp với cộng đồng nhân văn. Bởi trong sự thực, dù thất thế, Phạm căn bản vẫn mang trong mình con người của căn tính lịch sử, căn cốt của một kẻ sĩ, nghĩa là ở tầng sâu, ông vẫn hướng đến cộng đồng ngoài kia, vì theo niềm tin chung của Nho giáo, trước xã hội, họ tin vào sự chuyển hóa tối hậu và tính chất lương hảo nội tại của cộng đồng nhân văn. Vì thế, lịch sử tâm tính được bồi đắp, nhưng hệ giá trị trong Phạm đã thuộc về Nho giáo không bớt đi bao nhiêu, nên, bước đi không triệt để. Đây chính là lí do, trong giai đoạn cuối cuộc đời, ông luôn day dứt (vừa hướng đến các phạm trù Nho giáo, vừa say với đời và vừa mơ đến thế giới Tiên, Bụt: Chết về Tiên, Bụt cho xong kiếp.
5.
Đam mê của Phạm thuộc về những thế giới giá trị bản thể chứ không phải mộng tầm thường. Vương triều, với một kẻ sĩ Nho giáo là giá trị hướng đến cao nhất, nơi đó là đích đến, quy định danh phận của một đời người, phận người (chính danh định phận)(19). Mất phương hướng, ông hướng đến tình yêu, một giá trị bản thể - người khác. Sự thay đổi từ cựu triều sang thế giới luyến ái, ý thức Phạm chuyển vị từ thượng đế xã hội (bên ngoài) sang thượng đế của chính mình (bên trong). Bước vào tình yêu, gần như phần lớn năng lượng sống của mình, Phạm Thái dồn cho sự luyến ái lứa đôi. Cũng ở đây, một vùng trải nghiệm mới của nhân tính được tỏ lộ. Gương “mặt trượng phu”, “mặt anh hùng” nhường chỗ sự tỏa rạng của “người tài tử” - Phạm Kim chiếu sang “người thần tiên” - Quỳnh Thư. Đây là mẫu hình của thời đại, khi người phụ nữ và những say mê lãng mạn trong tình yêu đôi lứa lần đầu tiên được thể hiện mãnh liệt. Có thể xem trong sự diễn tả say sưa hệ chủ đề này, kẻ diễn kịch cho đức hạnh tạm nhường chỗ cho những diễm từ ca ngợi luyến ái người - người. Có thể nói, tình yêu chính là một trong những sự kiện quan trọng bậc nhất làm nổi rõ bản ngã tài - tình của Phạm(20). Các nhà nghiên cứu khi đề cập đến những sáng tác của Phạm Thái đều thống nhất đóng góp nghệ thuật diễn tả tình cảm cá nhân đi ra ngoài khuôn khổ. Chính ở đây, như một cứu cánh cuối cùng, ông thực hiện trọn vẹn cái tâm của mình(21). Tham dự vào tình yêu, Phạm Thái vừa sơ chớm ngọt bùi đã chuốc lấy và ngấm trọn “sầu”- “hận”- “oan”- “oán”. Những hăm hở yêu đương với Quỳnh Thư, có thể nói, đã khắc sâu, làm nổi bật khía cạnh bi kịch của ông, bi kịch thân phận. Sự tan vỡ trong luyến ái đã làm cho tính bi kịch lớn lên thành bi kịch(22). Sơ kính tân trang là sự tập trung điều đó. Hình tượng gây ám ảnh, với Phạm chính là Trời với các biến thể: Con tạo, trời xanh, khuôn duyên, lẽ huyền vi, đấng cửu trùng, trời già… và đặc biệt là “ông đô đốc chốn kinh kì”. Hai hình tượng, một vô hình, một hữu hình, thuộc về hai cõi: thiêng và phàm, làm nên hai quyền lực chia uyên rẽ thúy. “Trời già” có thể đồng lõa với phúc phận con người nhưng lại có khoảng cách. Điều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là tính phổ quát của nó trong giai đoạn văn học này. Chính cặp đôi Tài tử - giai nhân đã thu và tỏa ra ý niệm này. Cũng chính vì tính phổ quát của thân phận này mà Aristotle đã xem bi kịch (trong thơ ca) có tính triết lí hơn và nghiêm túc hơn lịch sử. Theo chúng tôi, trong cách nhìn này, lịch sử thật phải là lịch sử của tâm tính. Và cảm nghiệm trên đây là cảm nghiệm của/cho chủ thể. Từ đây, xuất hiện những “hủy thể”, những biến đổi bi đát trong Phạm.
6.
Tiếng chửi của Phạm là sự hắt ra của một tâm giới nhiều nhiệt huyết trước thời đại. Từ khởi thủy đến nay, vấn đề này luôn bềnh bồng xô lệch trên lằn ranh giữa hai bờ đạo đức và luân lí. Tiếng chửi của Phạm, theo chúng tôi, là một thái độ quyết liệt từ khước chính bản thân mình, từ khước thân phận thua cuộc trong chính mình. Bởi tiếng chửi bao giờ cũng hướng đến một đối tượng nào đó, và trong bản thân mình luôn luôn hiện diện những đối tượng để mình từ khước. Trong thái độ “tự trào”, “than đời” ông tự nhận: Miễn được ngày nào cho sướng kiếp/ sống thì nuôi lấy, chết chôn đi hay Chết về Tiên, Bụt cho xong kiếp/ Đù ỏa trần gian sống mãi chi?(23). Trong cái nhìn của tâm lí hiện sinh, mỗi một cá thể thể hiện ra với cuộc đời những dự phóng nào đó. Một khi ý thức đạt được/ không đạt được mục đích, ý thức lại kết nối với chính ý thức, nghĩa là đem đến một hệ quả nhất định nào đó trong bản thân, trên cơ sở đó hướng đến các dự phóng mới(24). Đó là một vòng tuần hoàn xen kẽ nhất thiết giữa ước muốn và sự thỏa mãn, sự khiếm khuyết, thiếu hụt và sự sở đắc. Mỗi một sự phóng ngoại thường bao hàm một sự thu hồi. Hệ lụy không dừng lại ở đó, khi những phóng ngoại với thế giới và sự vật, chủ thể sẽ có những mất mát và bù đắp. Quá trình đó không cân bằng, cái tôi sẽ rơi vào khủng hoảng. Phạm thuộc về sự khủng hoảng đó. Tiếng chửi là một sự im lặng, hướng đến không cộng cảm, không thông giao với cuộc đời nữa ở một tâm tính ít chịu dung hòa, nghĩa là nghiêng hẳn về phía cực đoan của một kẻ hướng nội.
7.
Tâm lí học chiều sâu chỉ ra rằng, tại khởi điểm của cuộc sống, con người là một tổng thể. Khi sự phát triển diễn ra, tính tổng thể này được biệt hóa và chia thành nhiều phần, và trong tiến trình thành nhân, cái tôi hướng đến tự ngã, cấu trúc tâm thần trở về tổng thể, một tổng thể lớn hơn. Con đường đạt đến tổng thể ấy là con đường của tự ngã. Những tham dự của Phạm trước và trong cuộc đời là không triệt để, vì vậy, đặt vấn đề về tự ngã trong thơ văn ông chỉ có thể là đường mơ trong tâm giới của ông mà thôi. Điều này luôn diễn ra như một bù trừ trong con người nhiều bi kịch kia.
N.Q.H
(SH292/06-13)
...............................................
(1) Phạm Thái (1777 - 1813) còn có các tên gọi khác: Phạm Phụng, Phạm Văn Lý, Chiêu Lì. Về năm sinh và mất của ông, các khảo cứu của Lê Dư, Dương Quảng Hàm, Hoàng Hữu Yên đều thống nhất với nhau. Nguyễn Văn Xung trong Phạm Thái và Sơ kính tân trang, trang 25 - 25 ghi năm mất của Phạm Thái là 1814.
(2) Dương Ngọc Dũng - Lê Anh Minh, Triết giáo Đông Phương, Nxb. Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003, tr152.
(3) Trần Đình Sử, Lý luận và phê bình văn học, Nxb. Giáo dục, 2003, tr215.
(4) Tự ngã là thuật ngữ trung tâm trong nghiên cứu tâm lí chiều sâu của C. Jung (1875 - 1961), nhà tâm lí học hiện đại người Thụy Sỹ. Để chuyển ngữ nội dung mà Jung muốn diễn tả, khi dùng thuật ngữ Self. Xin xem thêm Murray Stein, Bản đồ tâm hồn con người của Jung, Nxb. Tri thức, 2011, từ trang 225 đến 290.
(5) Lưu Hồng Khanh, Giải kinh tâm lí chiều sâu, Ban tu thư thần học, 1997, tr 50.
(6) Trần Đình Sử, sđd, tr 214.
(7). Nguyễn Văn Xung, Phạm Thái và Sơ kính tân trang, Lửa thiêng xuất bản, 1973. Từ trang 34 đến trang 47, ông cho rằng Phạm Thái là một tâm hồn say mê: say mê giấc mộng anh hùng của thời đại, say mê tình ái, say mê giang hồ.
(8) Trần Ngọc Vương, Thực thể Việt nhìn từ các tọa độ chữ, Nxb. Tri thức, 2010, tr111- 137.
(9), (15), (16), (23) Nguyễn Văn Xung, sđd, tr184, tr194, tr178, tr163-164. Các trích dẫn về thơ văn Phạm Thái chúng tôi đều theo bản này, vì đây là một tập hợp khá đầy đủ về thơ văn Phạm Thái. Tác phẩm của Phạm Thái gồm: Sơ kính tân trang, Văn tế Trương Quỳnh Như, Chiến tụng Tây hồ phú, Thơ họa 12 bài Trương Quỳnh Như. Ngoài ra, ông còn có một bài Văn triệu linh theo thể song thất lục bát, Văn bia mộ Thanh Xuyên hầu theo thể lục bát và một số bài thơ Nôm ngẩu cảm như: Tự trào, Tự thuật, Đề tranh mỹ nữ, Đề chùa Tiêu Sơn, Họa thơ Thanh Xuyên hầu, Đề nhà Nghĩa lư, Đề núi Con Voi, các bài phả khuyến…
(10) Phan Cự Đệ, Lời giới thiệu, in trong Khái Hưng, Tiêu Sơn tráng sĩ, Nxb. Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, 1989, tr10.
(11) Phan Cự Đệ, sđd, tr12.
(12) Nguyễn Huệ Chi, Từ điển văn học bộ mới, Nxb. Thế giới, 2004, tr1369.
(13) Khái Hưng, sđd, tr119.
(14) Xem thêm Trần Ngọc Vương, sđd, tr453-462.
(17) Đỗ Duy Minh, Đạo, học và chính trị trong học thuyết nhân văn Nho giáo cổ điển, in trong Triết giáo Đông phương, sđd, tr247-253. Khi suy tư về những giá trị bản thể con người, trong những huyễn tưởng về số mệnh, thân phận con người và các giá trị của nó, A. Sen cho rằng chúng ta nên chấp nhận “đa căn tính” trong một con người. Xin xem thêm: Amartya Sen, Căn tính và bạo lực, Nxb. Tri thức, 2012, tr55-90.
(18) Bản ngã (ego), theo Jung định nghĩa: “Nó hình thành nên, có thể nói, trung tâm của trường ý thức, và trong chừng mực trường này bao hàm nhân cách kinh nghiệm thì bản ngã là chủ thể của tất cả mọi hành vi ý thức của cá nhân”, dẫn theo M. Stein, sđd, tr31-32. Nói một cách hình ảnh, bản ngã là một loại gương mà tâm thần có thể soi mình và có thể trở nên có ý thức. Nó thuộc phạm vi của ý thức. Trong khi đó, Tự ngã (Self) trong lí thuyết của Jung là sự tổng hòa cả Ý thức và Vô thức mà con người, trong ngưỡng vọng hướng thượng hướng đến.
(19) Đỗ Lai Thúy, Loại hình các nhân vật trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỉ X - XIX, trong Trần Ngọc Vương (chủ biên), Văn học Việt Nam thế kỉ X - XIX những vấn đề lí luận và lịch sử, 2007, tr 463 - 482.
(20) Hà Như Chi, Luận về Phạm Thái, trong Phê bình bình luận văn học, Nxb. Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 1999, tr 210.
(21) Trong lí thuyết đạo đức hình nhi thượng, Mạnh Tử khẳng quyết: “Nếu một người hoàn toàn thực hiện cái tâm của mình, anh ta sẽ hiểu được bản tính. Nếu hiểu được bản tính của mình, tức là hiểu trời”. Mạnh Tử, Tận tâm chương cú thượng, Tứ Thơ, Nxb. Thuận Hóa, 1996, tập hạ, tr216. Nguyên văn: Mạnh tử viết: “Tận kì tâm giả, tri kì tánh giả. Tri kì tánh, tắc tri thiên hỷ”.
(22) Bi kịch (tragedy), trong tư tưởng tiền hiện đại, là ý niệm về sự liên đới giữa số mệnh và cái ngẫu nhiên (được hiểu như sự may rủi, sự khống chế của thế lực bề trên). Cũng theo đó, theo Adrian Poole, số mệnh chính là người nghệ sĩ nhào nặn cuộc sống của con người. Theo đó, từ cái nhìn cận cảnh, cụ thể, con người mang bi kịch. Xin xem thêm Adian Poole (Đinh Hồng Phúc dịch), Bi kịch, Nxb. Tri thức, 2012.
(24) André Niel, Jean Paul Sartre-Anh hùng và nạn nhân của ý thức khốn khổ, Ca dao xuất bản, 1968, tr72-73.
TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.
TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?
HOÀNG NGỌC HIẾN ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...
THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.
TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.
ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…
HỒ THẾ HÀ Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.
JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...
PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...
HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.
HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.
NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.
PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.