Dưới vòm trời xanh thẳm

14:11 16/03/2009
PHẠM NGUYÊN TƯỜNG              Tản mạn từ Bruxelles Dưới mái hiên trạm gác cũ Porte de Ninove gần chỗ tôi ở có sống một cư dân đơn độc và lưu niên. Gã bù xù, tôi chỉ biết gọi gã như thế, nom chỉ trạc ngoài ba mươi nhưng có vẻ như đã cũ nát lắm rồi. Không ai biết gã từ đâu dạt vào, ở đó từ bao giờ.

Bộ dạng của gã làm tôi nhớ đến những tấm áp-phích nhỏ vẫn thường dán trên các cửa tàu điện ngầm Bruxelles, trong đó in những bức ảnh minh hoạ nhằm ngăn ngừa những hành động khó coi của một vài “quý ngài” đi tàu, chẳng hạn như viết vẽ bậy lên thành tàu, la hét om sòm, hoặc... không biết nhường ghế cho đàn bà có bầu. Nhân vật chính của các bức ảnh là một anh chàng nhớp nhúa đen đúa, tóc tai bù xù, mặt mày dữ tợn..., nói chung thoạt nhìn đã biết là văn hoá... cùng đinh. Chủ đề của những bức ảnh đại ý là: “Dịch vụ của chúng tôi tiến triển rất tốt, còn quý ngài thì sao?”. Đúng là miệng lưỡi khách sáo của người Âu, từ “vous” chỉ có một nghĩa trịnh trọng là “quý ngài”, nhưng thật tình, với những tấm ảnh như vậy ai mà hiểu là “quý ngài” cho được? Theo tiếng Việt phong phú mà suy, “chúng mày” có lẽ đúng hơn chăng? Chưa hết, từ “évoluer” ngoài nghĩa “tiến triển” ra còn có thêm nghĩa là “tiến hoá” nữa. Thế mới đểu!

Lại nói tiếp về gã bù xù. Tổ ấm của gã là một tấm nệm dày gần một tấc, của đáng tội, nó căng phồng lên vì tuồng như bên trong chứa đầy một loại mùi khai thối tổng hợp đặc trưng, mùi này không khó kiếm ở Bruxelles nơi các góc xó hẩm hiu của các ga tàu điện ngầm. Bên trên tấm nệm là một tấm chăn rách nát như chính chủ nhân mà nó hằng bảo bọc, kèm theo một cái gối xác xơ hồn vía. Một cái vỏ chuối bầm dập nằm cách tấm nệm khoảng hai sải tay, như không thể nằm xa hơn. Một hộp bánh ăn dở dang, rơi trong vãi ngoài, hệt như “bãi chiến trường” sau một bữa ăn thịnh soạn của bầy quạ đen vốn rất nhiều ở trong thành phố này.

Gã bù xù đã sống như thế bao năm nay, màn trời chiếu đất. Gã là một trong hàng ngàn người thuộc giới “bị gậy” ở cái đất nước được mệnh danh là “trái tim của châu Âu” này. Lần đầu xuất ngoại, tôi mang một niềm tin ngây thơ rằng “ăn xin” chỉ là sản phẩm của của những xứ nghèo đói, ai dè ở Bỉ cũng đầy. Người ăn xin trên các hè phố, nhà chờ xe buýt, tàu điện ngầm, trước cổng nhà thương... Ai đó nói một cách đầy lo âu, “mặt trái của toàn cầu hoá’, chính là đây chăng? Tuy vậy, gã bù xù chỉ là một hình ảnh tương đối cá biệt trong giới ăn xin ở Bruxelles. Còn phần lớn họ trông rất tươm tất, sạch sẽ, thậm chí đường hoàng, đĩnh đạc. Và đặc biệt người ta không có cái thói cực kỳ khó chịu như ở xứ mình là cứ bám theo khách như đỉa đói, xin cho bằng được tiền mới thôi. Họ có nhiều kiểu cách ăn xin khác nhau, có thể gọi một cách thời thượng là “văn hoá ăn xin” cũng được, khiến tôi có cảm tưởng sai lạc rằng “ăn xin” là một nghề hợp pháp. Họ không chỉ là những ông già bà lão hom hem, sức tàn lực kiệt mà đôi khi còn là những thanh niên trai tráng, đỏ da thắm thịt hẳn hoi. Họ ngồi một chỗ, không lê la lây lất, trước mặt để tấm giấy cạc-tông nguệch ngoạc vài chữ: “Tôi vô gia cư, vợ bỏ, hai đứa con đói. Xin giúp đỡ. Quý ngài thật tốt bụng. Xin cảm ơn”. Chẳng cần năn nỉ ỉ ôi... vẫn có tiền rơi xuống. Hoặc đôi khi có người nhảy lên tàu điện ngầm ở một ga nào đó, miệng mở vô-lum: “Thưa quý bà quý ông, xin mời quý bà quý ông thưởng thức chương trình âm nhạc”. Thế là tiếng hát cất lên, trên nền hợp âm phối khí của một cây đàn phong cầm sờn cũ, một cái xập xèng há mồm v.v... hay thậm chí nhiều khi chỉ là “hát chay”. Hát xong một bài, họ cầm cái lọ con đi từ đầu toa đến cuối toa, ngụ ý đề nghị quý bà quý ông rỏ chút lòng thương xót. Trong tiếng rít của gió, của đường ray sắt ken két qua tai, tiếng những đồng xu euro rơi vào lòng lọ con nghe như tiếng con mèo sắp chết nước, cố phát ra một chút hơi tàn. Một lần nọ ngay dưới chân cầu thang cuốn của ga metro De Brouckere, tôi nhìn thấy ba cha con  người Ả Rập ngồi thảm não. Người cha đâu chỉ lưng chừng bốn mươi, hai tay nách hai thằng con trai cỡ lên chín lên mười, cả ba cha con đều cúi gầm mặt, không một lời thưa thốt. Chỉ cần có vậy, những đồng xu euro thỉnh thoảng lại “meo”, “meo”... một chút hơi tàn, nghe đanh và lạnh. Hình ảnh ba cha con khiến tôi chạnh lòng nhớ đến câu thơ của anh bạn Huế Phạm Tấn Hầu, thủng thẳng mà chua xót:
trái và hoa hạnh phúc
đã mỏi mòn
trong tầm tay ru hỡi...

Trong bối cảnh châu Âu hợp nhất và thông thoáng hơn, dòng người tứ xứ đổ về Bỉ ngày một nhiều, trong đó nhiều nhất phải kể đến cộng đồng người Ả Rập. Người làm nhiều, kẻ đến ăn cũng lắm. Bỉ là một đất nước có chế độ phúc lợi xã hội khá lý tưởng, tiền trợ cấp thất nghiệp đôi khi gần bằng lương một anh công chức, quý bà quý ông cứ gọi là tha hồ mà sống nhé. Ở tầng trên nhà tôi trọ an toạ một gia đình “cựu thuyền nhân” Việt nam, một chữ Việt bẻ đôi không biết, phải nhờ người khác viết hộ thư về quê hương dặn dò người ở lại không được một ngày bỏ bê coi sóc lăng mộ cha ông (tiền đâu có thiếu), ba mươi năm nay từ khi thuyền dạt vào xứ Bỉ, chỉ ăn không ngồi rồi, tụ tập xóc dĩa tổ tôm, vẫn được hưởng trợ cấp 800 euro một tháng, ngon ơ. Chồng ăn đường chồng, vợ ăn đường vợ, đẻ con ra lại được hưởng thêm tiền sinh con, đẻ càng nhiều hưởng càng bộn. Chỉ tội mấy anh mấy chị tóc vàng da trắng phải nai lưng ra làm việc chết ông chết cha mỗi ngày đừng nói là tám tiếng, để mà còn gánh thêm tiền thuế vừa nặng vừa dày. Thế có tức không?

Chỗ tôi ở là một khu tập trung khá lớn cộng đồng người Ả Rập, những “quý ngài” ở ngôi thứ hai số nhiều này được gọi chung một cái tên thật gọn nhẹ là “dân rệp”. Rệp ở đây là... những con rệp (puces)! Có người giải thích rằng, ngày xưa dòng người Ả Rập qua Bỉ làm công nhân hầm mỏ, đào tuyến đường hầm để làm tàu điện... cuộc sống chui rúc khác nào những con rệp nên mới gọi như thế. Lại có người xấu mồm gọi “dân rệp” vì họ ăn ở bẩn lắm, xả rác lung tung, ba trợn ba trạo, chặn đường cướp giật, xin đểu... khác nào loài chấy rệp... Thôi thì chẳng biết tin ai, chẳng biết đường nào mà lần. Tuy thế, sống gần họ mấy tháng, thấy họ cũng hiền, xóm làng bình yên, chỉ thiếu mỗi cái cổng chào “khu phố văn hoá” như ở bên mình thôi. Trong vùng có khu chợ Abbatoir khá nổi tiếng, tục gọi là “chợ rệp” (marché aux puces). Khung cảnh chợ rệp nó từa tựa như chợ trời ở Việt nam, hàng hoá thôi thì đủ cả, từ cây kim sợi chỉ cho đến băng đĩa máy móc, rau củ cá tôm tươi ngon ngồn ngộn... đúng như “tôn chỉ mục đích” của mọi chợ trời trên... trái đất này: “ai mua chi cũng bán, ai bán chi cũng mua”. Những anh chàng “tiểu thương” Ả Rập tay bán miệng rao thật nhanh nhẹn, hoạt bát và... buồn cười.

Chợ chỉ mở vào những ngày cuối tuần nên người đi chợ càng đông, nhộn nhạo đủ các màu da vàng với đen chen trắng. Trong dòng người chộn rộn đó, tôi đâm ra thọc mạch vẩn vơ. Không biết trong đầu họ đang nghĩ ngợi điều gì? Họ có nghĩ về nhau? Như những quân cờ trong bàn cờ vây, họ đang hoà hợp hay chia rẽ? Những thiếu phụ khăn đen trùm đầu, mắt đen sâu thẳm... họ đến từ đất nước Hồi giáo nào? Họ có một tổ quốc không? Trong số những ông những bà nước da đen như cột nhà cháy kia, ai là người gốc Ru-an-đa, Công-gô, Su-đăng..., những đất nước ngập ngụa triền miên trong nội chiến, bệnh tật, đói nghèo? Một thống kê công bố nhân ngày thế giới chống Sida vừa rồi, cứ bốn người Công-gô thì có đến ba người bị nhiễm HIV. Khiếp thật. Hay người ta nói vống lên? Có may mắn không khi họ đã rời bỏ cố quốc để trở thành một người dân Bỉ? Làm một người dân Bỉ thì khi bị nhiễm HIV sẽ được chữa trị không mất một đồng xu, con vi-rút hãi hùng này có nằm mười năm trong máu cũng không phát thành bệnh Sida vì nó bị thuốc men chặt chân khoá tay rồi còn đâu. Làm một người dân Bỉ, họ có nhiều thời gian hơn để nghĩ về những chuyện trời mây non nước, chẳng hạn chuyện hôn nhân đồng tính, nên chăng, không nên chăng? Chẳng hạn chuyện thuê người khác mang bầu, chứ thời nay ai lai đi mang một khối tình ễnh ạng như thế cho nặng nề, nhọc mệt, vừa “bể phọt” vừa mất thời gian “của mấy bà”.

Hôm đầu tháng 11 vừa rồi, ở bệnh viện chỗ tôi thực tập người ta có tổ chức một buổi sáng dành cho ngài Đạt Lai Lạt Ma của xứ Tây Tạng đến nói chuyện về hoà bình, về dân chủ, về... tất cả mọi thứ ngổn ngang trong thế giới này. Không biết có ai trong chợ rệp này đã có mặt trong buổi trò chuyện tôn giáo ấy? Họ không đến dự đám này thì rồi cũng theo một cuộc khác mà thôi. Là người, ai mà chẳng luôn mong được an ủi, vỗ về? Những thao thức tôn giáo khôn nguôi của họ đã được giải đáp thoả đáng đến đâu? Rồi những người ăn xin kiếm được dễ đến mấy chục euro mỗi ngày kia họ có đang đi chợ rệp, có đang kén cá chọn canh như một “tên da vàng ngơ ngác” là tôi không nhỉ? Tôi nhìn lên bầu trời Bruxelles xanh thẳm không một gợn mây, chỉ thấy những dải khói trắng sau đuôi máy bay đan dọc đan ngang thật là ngộ nghĩnh. Trên bầu trời Bruxelles máy bay bay dày, ai cũng công nhận như vậy. Trái tim của châu Âu mà. Bao nhiêu người đến rồi đi. Bao nhiêu người ở lại đất này? Rồi ra ai cũng phải tìm cho mình một cách để sống chứ, một mảnh đất để sống chứ. Chao ôi là.

Từ ga tàu điện De Brouckere trồi lên mặt đất, nơi có ba cha con người Ả Rập cúi đầu ăn xin dưới chân cầu thang cuốn, đi một đoạn ngắn là tới khu Bourse, khu trung tâm tài chính và thương mại của Bruxelles. Ngựa xe như nước áo quần như nêm! Trong cái dáng bộ hành hấp tấp đặc trưng của người Âu, có cảm tưởng như họ làm ra tiền ngay cả trên mỗi bước chân! Trong lòng còn trĩu nặng hình ảnh ba cha con người Ả Rập mệt mỏi bơ thờ, hình ảnh gã bù xù hôi hám, dữ tợn và cô độc lạnh lẽo dưới mái hiên trạm gác cũ... bỗng dưng tôi nhớ câu nói cuối cùng của nhân vật bị săn đuổi triền miên trong tiểu thuyết lừng danh “Bản du ca cuối cùng” của Remarque, không đành được mà thốt lên: “Người đâu mà đông thế?”.
           Bruxelles, mùa Noel 2004
                         P.N.T


(196/06-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN THÙY MAI.Năm giờ sáng, máy bay chở chúng tôi đáp xuống sân bay Incheon. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên vang lên với lời cảm ơn và câu chào tạm biệt, sau khi báo một thông tin làm chúng tôi ớn lạnh: Nhiệt độ bên ngoài là 4 độ C...

  • ĐẶNG NHẬT MINHLà một thương cảng của Nhật Bản, nhưng Fukuoka lại được nhiều người biết đến như một thành phố của nhiều hoạt động văn hoá mang tầm quốc tế. Tôi có duyên nợ với thành phố này từ năm 1991 khi được mời tham dự Liên hoan phim quốc tế Fukuoka lần thứ nhất với bộ phim Bao giờ cho đến tháng 10.

  • PHẠM XUÂN PHỤNGChữ tea trong tiếng Anh là do dùng mẫu tự La -tinh để ký âm chữ trà (âm Hán Việt) mà người Trung Hoa nói rất rõ là chè. Lâu nay cứ tưởng chè là tiếng thuần Việt hoặc là biến âm của trà, hóa ra chè lại là từ gốc của trà. Mẹ mà nhầm là con, vui thật.

  • BÙI NGỌC TẤNLần đầu tiên đặt chân tới Châu Âu, có biết bao nhiêu ấn tượng. Ấn tượng về những nét mặt người, về những dáng người đi, về bầu trời không vẩn bụi trong veo, về những xa lộ, về những chiếc xe phóng với tốc độ 140 kilômét không một tiếng còi, nối nhau trên các con đường tám đến mười làn xe chạy không còn biên giới cách ngăn...

  • NGUYỄN VĂN DŨNGCó người nói Praha đẹp hơn Paris . Tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tôi thấy nhận xét ấy không phải không có căn cứ. Praha là thành phố cổ kính nguyên vẹn nhất châu Âu, là “thành phố của trăm tháp vàng”, là “bài thơ bằng đá”, là khúc hát đắm say, là cốc rượu nồng nàn, là bức tranh tuyệt mĩ, là mảnh thời gian còn sót lại... Năm 1992, Praha được công nhận là di sản văn hoá thế giới.

  • PHẠM THỊ CÚCCó người nghĩ rằng, ở các nước giàu, thì ít người thất nghiệp. Không đâu, ở Pháp, người thất nghiệp cũng khá nhiều, mà đâu phải vì không có bằng cấp mà thất nghiệp, đa số họ đều có bằng kĩ sư, cử nhân, cả thạc sĩ hẳn hoi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGAmazon là tên khu rừng lớn nhất thế giới. Amazon cũng là tên con sông, theo khảo sát mới đây, là con sông dài nhất thế giới. Amazonas, quê hương của hai Amazon kia, là bang rộng nhất trong 26 tiểu bang của Brasil - rộng hơn cả diện tích của nước Anh, Đức, Pháp, Ý cộng lại. Còn Manaus, là kinh đô của Amazonas miên man núi rộng sông dài.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG    Tôi thật sự xúc động khi đứng trước ngôi mộ của Lý Tiểu Long. Trước đây tôi hình dung nơi an nghỉ cuối cùng của anh phải là một ngôi đền cực kỳ tráng lệ cho xứng với tên tuổi lẫy lừng của anh. Sau khi anh mất, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó viết đại loại trong thế kỷ XX, anh là một trong ba nhân vật nổi tiếng nhất châu Á.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGVới Phật giáo, Linh Thứu là ngọn núi thiêng. Sau khi thành đạo, một thời gian dài Linh Thứu là trú xứ của đức Phật và các đệ tử của Ngài. Tại đây Ngài đã giảng kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh quan trọng khác. Linh Thứu còn là nơi khởi phát dòng Thiền Ấn Độ để rồi từ đây hạt giống Thiền được gieo trồng khắp nơi trên trái đất.

  • PHẠM PHÚ PHONGTrong lịch sử đất nứơc Trung Hoa có sáu nơi được chọn làm thủ đô, theo thứ tự Lạc Dương, Tây An, Nam Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh là thủ đô thứ sáu, tồn tại cho đến ngày nay. Bắc Kinh đầu tiên là kinh đô của nước Yên, nên còn gọi là Yên Kinh, sau đó đến thời Minh Thành Tổ cho xây dựng trở thành Bắc Kinh ngày nay. Với diện tích 18.826 km2, Bắc Kinh rộng gấp 18 lần so với thủ đô Hà Nội, được mệnh danh là thành phố bốn nhiều: nhiều người, nhiều xe, nhiều cầu vượt, nhiều di tích...

  • Từ một trại lính đầy vết đạn ở vùng California (Hoa Kỳ) đã xuất hiện một tu viện Phật giáo - Tu viện Lộc Uyển - do nhà sư gốc Huế - Thiền sư Thích Nhất Hạnh - gầy dựng. Tại đây, ảnh hưởng của Thiền học Việt Nam đã tạo được một sự chuyển hóa đầy thử thách: biến trung tâm luyện tập bắn súng trở thành thiền đường đầy ánh sáng và tình thương, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiếu người ở Hoa Kỳ.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Teresa Wattanabe đã đăng trên tờ Los Angeles Times, tờ nhật báo lớn hạng ba của Hoa Kỳ, với bản dịch của Làng Mai và ảnh của Nguyễn Đắc Xuân để giới thiệu với bạn đọc như một dòng chảy của văn hóa Phật giáo xứ Huế.

  • TRẦN THÙY MAICác quan chức ngành khí tượng Nhật Bản đã cúi gập mình xin lỗi toàn dân: Hoa anh đào sẽ nở ngày 23 thay vì 16 - 3 như dự báo. Đến sân bay Narita vào đúng sáng 24, tôi tự nghĩ mình đến rất kịp thời, nên khi cậu cảnh sát làm thủ tục nhập cảnh hỏi về mục đích đến Nhật, tôi đã không ngần ngại trả lời chắc nịch: “Ngắm hoa anh đào”. Cậu cảnh sát khoanh cái rụp vào lời khai của tôi và “OK” ngay với một nụ cười trên môi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGNằm giữa trung tâm bán đảo Iberia, thủ đô Tây Ban Nha trải rộng trên các ngọn đồi dưới chân rặng Sierra de Guadarrama, ở độ cao 640m so với mặt nước biển - là thành phố cao nhất châu Âu. Diện tích 607 km2. Dân số gần 4 triệu người.

  • KEVIN BOWEN
    (Giám đốc WJC)

    LTS: Trong 25 năm qua tên tuổi nhiều nhà văn, nhà thơ của Trung tâm William Joiner (Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ) như Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung, Lady Borton, Martha Colline, Bruce Weigl, Lary Heinemann... đã xuất hiện trên Sông Hương cũng như trên nhiều báo chí văn nghệ, văn hoá trong nước với những tác phẩm tâm huyết, mến yêu đất nước Việt Nam cũng như những hoạt động trên các lãnh vực giao lưu văn hoá, giúp đỡ y tế, giáo dục cho Việt Nam sau chiến tranh, như những biểu hiện của sự ân hận, tủi hổ với những gì mà đất nước họ đã gây ra trên mảnh đất này.

  • NGUYỄN BÁ CHUNG

    Tháng 10 năm 2007 đánh dấu 25 năm thành lập trung tâm Joiner. Nhưng với tôi, nó đánh dấu một đoạn đường 20 năm nổi chìm với trung tâm, trong đó có 15 năm làm thiện nguyện và 10 năm cuối cùng làm việc chính thức. Hai mươi năm là một thời gian dài đủ để nhìn lại, ghi lại một số kỷ niệm và rút ra một số kinh nghiệm để nhìn tới đoạn đường phía trước.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.

  • VÕ QUÊNhận lời mời của Hội đồng quốc gia vì nghệ thuật truyền thống Hoa Kỳ (National Council for the Traditional Arts), đoàn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tham dự Festival dân ca dân nhạc tại thành phố Lowell, bang Massachusetts, Hoa Kỳ từ ngày 25-7-1995.

  • NGUYỄN XUÂN THÂMChúng tôi đến Aten vào cuối tháng chín, mà buổi trưa vẫn còn oi bức như bao trưa miền biển ở Việt . Thanh Tùng và tôi loay hoay mãi vẫn không bắt được taxi để chuyển tiếp đến sân bay nội địa.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).

  • PHẠM THƯỜNG KHANHĐầu năm nay khi biết tôi chuẩn bị đi công tác Trung Hoa, em gái tôi, một người thơ gọi điện từ Huế ra bảo: “Anh cố gắng mà cảm nhận vẻ đẹp rực rỡ của văn minh Trung Hoa. Hình như với bệ phóng vững chắc của nền văn minh hàng ngàn năm ấy, người Trung Hoa đang có những cuộc bứt phá ngoạn mục và trong tương lai dân tộc này còn tiến xa hơn nữa”. Là một quân nhân, tôi đâu có được trí tưởng tượng phong phú và trái tim dễ rung động như em tôi, nhưng 10 ngày trên đất nước Trung Hoa đã để lại trong tôi những ấn tượng thật sâu đậm.