Dư âm của biển (1)

09:44 06/05/2015

MAI VĂN HOAN

"Dư âm của biển" - theo tôi là cách gọi hợp nhất cho tập thơ mới này của Hải Bằng. Đặt "Trăng đợi trước thềm" chắc tác giả gửi gắm một điều gì đó mà tôi chưa hiểu được. Song với tôi "Trăng đợi trước thềm" có vẻ mơ mộng quá, tên gọi ấy chưa thể hiện được giai điệu cuộc đời của thơ anh.

Nhà thơ Hải Bằng - Ảnh: tư liệu

Cả tập thơ gần như là dư âm của một thời đã qua - một thời đầy sóng gió, đầy kỷ niệm, đầy ơn nghĩa nhưng cũng lắm tủi hờn và cay đắng. Ở tập thơ này Hải Bằng nghiêng về quá khứ, nghiêng về hồi tưởng, nghiêng về suy tư. Nếu thơ là cuộc đời thì thơ của Hải Bằng chính là cuộc đời của anh. Một cuộc đời chìm nổi, buồn vui khổ đau và hạnh phúc. Cuộc đời ấy để lại dư âm trong những vần thơ tâm huyết của anh. Như là:

"Trong chiều sâu tiếng hát
Lòng cây còn dư âm"

Bởi vậy, ta nghe trong thơ anh dư âm tủi nhục của thời nước mất, nhà tan:

Gió mưa tan vào chiều xế
Chảy một dòng nước mắt thuở sinh con


Đứng trước mộ mẹ, dư âm ấy như vẫn còn văng vẳng bên tai anh:

Suốt một đời lắng đọng
Trên một nấm mồ xanh
Tiếng gì còn vang vọng
Trong làn gió vây quanh


Ta còn nghe trong thơ anh dư âm của những câu mái nhì những khúc Nam ai, Nam bình, dư âm của "tiếng gõ vạn chài tinh sương kéo lưới", dư âm của những câu thơ Hàn Mặc Tử: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Huế của tuổi thơ cứ còn dư âm mãi trong anh:

Trời mọc nhà xưa ở hướng đâu
Tháng năm đi học nắng xoa đầu
Một câu thơ đã thành vô tận
Tiếng hát chiều chiều đứng ngõ sau

                (Đêm mưa rơi)

Dường như Hải Bằng không để lọt mất một âm thanh nào của cuộc đời, và bao giờ anh cũng lắng nghe dư âm của nó. Lần dở từng trang thơ của anh ta vẫn còn nghe đồng vọng tiếng nhạc Sô-panh, tiếng chim sơn ca và cả tiếng ù ù của những "miệng lu tròn hơi thở". Trong những dư âm ấy có dư âm của một mối tình thầm lặng, một mối tình không được đền đáp, một mối tình đầy trắc trở như chính cuộc đời của anh:

Ai gọi em
         em dạ
Đời gọi em
          em vâng
Tôi gọi thầm cây lá
Vườn chỉ còn dư âm


Đọc những dòng thơ này tôi cứ ngậm ngùi cho anh, tìm thấy ở anh một "tâm hồn đồng điệu". Anh đã hé mở cho ta biết nỗi niềm thầm kín và số phận bất hạnh của anh. Có ít nhất ba lần trong tập thơ Hải Bằng dùng "dư âm" để đặt tên cho các bài thơ của mình: "Dư âm còn", "Dư âm ngày sinh" và "Dư âm"! Riêng hai chữ "dư âm" thì anh nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần. "Dư âm" một điệp khúc, một nốt luyến trong tập thơ của anh. Tôi cũng không biết đó là một dụng ý nghệ thuật hay một sự trùng lặp vô ý? Chỉ biết rằng gần đây anh có thú thưởng thức âm nhạc và nuôi chim. Có lẽ dư âm của tiếng chim, dư âm của những ca khúc trữ tình đã lắng vào hồn anh. Nên mỗi lần cầm bút những "dư âm" ấy lại bay đến cùng anh. Nhưng sâu xa là dư âm cuộc đời, dư âm của tiếng sóng trong những chiều động biển. Tên tập thơ là "trăng" nhưng hầu hết thơ anh viết về biển. Qua thơ anh ta có thể đoán biết có một thời anh từng gắn bó với biển. Anh là Vĩnh Tôn, dòng dõi Hoàng tộc nhưng đời anh là cuộc đời của CHIM BIỂN. Vì thế anh đặt bút hiệu: HẢI BẰNG! Ta gặp trong thơ anh biển của một thuở vui buồn; biển trong đêm giao thừa; biển trong bình yên của người thủy thủ... Biển trong thơ Hải Bằng không mấy lúc dịu êm. Trừ bài "Trăng Nha Trang" biển có vẻ mơ mộng một chút còn thì toàn bão tố, cuồng phong. Và ngay khi trời yên biển lặng, anh vẫn thấy nó đang ẩn chứa những làn sóng dữ:

Trên biển
Phía trước - trời xanh
Đằng sau - bão tố

              (Trên biển)

Trong bài thơ "Một thuở vui buồn" ta vừa nghe "tiếng đổ nát chiến tranh" cùng với "tiếng sóng gầm bão dữ". Biển trong "Ba đầu đề họp lại":

Bão sắp lên rồi vẫn nhớ nhau!



Trên cái nền biển dữ dội ấy hiện lên bóng dáng con thuyền với đôi mắt vò võ: "thao thức hoài bên động bên yên", với mạn thuyền "hà xăm" và chiếc mỏ neo lầm lì, gan góc. Người xưa nói "thi trung hữu họa" điều đó rất hợp với thơ Hải Bằng. Khi anh vẽ thì tranh của anh in đậm chất thơ. Khi anh làm thơ thì thơ anh hóa thành những bức tranh sinh động. Hải Bằng đã thích cái gì thì anh "săn đuổi" đến cùng, thì anh bám sát đến cùng. Lúc anh khoái hai chữ "dư âm" thì "dư âm" được anh dùng mãi đến sốt ruột. Không biết anh có hiểu tâm trạng này của người đọc không? Tôi biết chiếc mỏ neo là hình ảnh mà anh tâm đắc. Trên tường nhà anh có treo bức tranh do chính anh vẽ: một chiếc mỏ neo hoen rỉ cắm sâu vào bờ cát. Có lẽ cũng chính vì tâm đắc với hình ảnh này nên anh cứ nhắc hoài, nhắc mãi. Tôi đã thử làm phép thống kê:

- Chiếc neo đi có gì mà lưỡng lự ("Ba đầu đề họp lại")

- Chạm chiếc mỏ neo trên ngực ("Tình yêu người thủy thủ")

- Chiếc mỏ neo như kim đồng hồ báo giờ gặp gỡ ("Tìm em")

- Cái đích của thuyền không hẳn chiếc mỏ neo ("Cái đích")



Tôi cũng không biết đó là sự lặp lại cố ý hay vô tình của tác giả? Mà dù cố ý đi nữa theo tôi, lặp lại quá nhiều như vậy là hơi lạm dụng. Trong tập thơ này ta còn bắt gặp khá nhiều lần anh dùng từ "níu". Trần Hữu Thung đã dùng từ này khá "đắt" trong câu: "lúa níu anh trật dép" (Thăm lúa). Hải Bằng dùng lại cũng được miễn là dùng đúng chỗ. Điều tôi muốn nói là vì anh hơi lạm dụng nên dù từ có "đắt" đến mấy cũng thành ra mòn sáo. Ví dụ:

- Bàn tay níu lo toan ("Em về mặc áo cho thơ")

- Bến níu lại ngây thơ ("Tôi hát về sông Hương")

- Cơn gió mùa không níu được bước đi ("Một thuở vui buồn")

Hải Bằng có mảng thơ thế sự rất đáng chú ý. Thơ thế sự của anh thâm trầm, góc cạnh. Anh vốn là một nghệ sĩ tạo hình bằng rễ cây nên anh thường mượn cây để nói chuyện đời. Trong bài "Cây si" anh viết:

Sáng nay
Cây si đứng ra khỏi chậu
Chậu vỡ đôi


Chỉ thế thôi mà có bao nhiêu ẩn ý đằng sau cái chi tiết có thật ấy. Bài "Ca khúc dân gian" cũng vậy, khổ kết bài thơ làm nhiều người phải giật mình:

Ngày ngày
Vẳng nghe
Vườn nhà bên chim hót
Anh nhớ cây đào, cây ổi, cây chanh.


Đó là những cây mà chủ vườn đã chặt vì không biết "trèo cây" không biết chọn mùa mà hái quả. Sự lười nhác và ngu dốt của người chủ vườn không chỉ gieo tai họa cho cây mà còn gieo tai họa cho cả chính mình. Thơ Hải Bằng thường có những câu kết bất ngờ và đột ngột. Anh đặc biệt thành công ở thể thơ tứ tuyệt. Có thể nói tứ tuyệt là sở trường của anh:

Chim vội qua sông hạ xuống cành
Nắng đi chầm chậm dưới trời xanh
Hàng cây ngả bóng cùng chung hướng
Riêng bóng em về ngả phía anh.

                     ("Ngả bóng")

Như những người làm thơ khác, Hải Bằng cũng chịu sự chi phối của qui luật sáng tạo nghệ thuật. Lúc nào anh viết những điều máu thịt, tâm huyết thì thơ anh chân thực, xúc động, tự nhiên và mới lạ. Đó là những bài thơ anh viết về mẹ, về tuổi thơ về nỗi đau của chính cuộc đời mình. Nhưng khi nào anh lấy sự tìm tòi câu chữ để thay cho cảm xúc lúc đó thơ trở thành những cái xác không hồn. Ở những bài thơ ấy lộ rõ bàn tay của người thợ. Có người khen thơ lục bát Hải Bằng, riêng tôi, tôi thấy lục bát của anh bộc lộ rõ nhất nhược điểm thích dùng chữ nghĩa của anh. Kiểu như:

- Gió dồn chồi sóng mọc lên
           ("Trăng Nha Trang")

- Đi trong lục bát bay vào thất ngôn
         ("Xuân Diệu - thơ anh tôi đọc")

- Tôi se khúc nhạc trắng phau tiếng đàn
           ("Tiếng đàn")

- Nông giang - mùa lúa lên rồi
Bóng em thuở ấy lại ngồi sinh thơ.
                  ("Qua Thanh Hóa")

Trong khi đó Hải Bằng viết những vần thơ về kỷ niệm lúc cùng đi với anh trai (cả hai anh em đều đã bạc tóc và sống xa nhau đằng đẵng mấy chục năm trời) trên đường phố Huế, giữa "đêm mưa rơi" thì ta không còn nhìn thấy câu chữ, chỉ thấy nỗi lòng da diết của anh:

Có thật là ta khóc phải không
Nghe như giọt nắng nhói trong lòng
Một mai ngã xuống chân thành cũ
Thơ vẫn gọi đò trên bến sông


Ta như nghe trong những vần thơ ấy dư âm của thời gian, dư âm cuộc đời, dư âm của một tâm hồn chung thủy với thơ ca với nghệ thuật mặc dù anh phải trả giá một cách đau đớn. Vì lẽ đó mà khi đọc xong tập thơ của anh tôi cứ muốn chữa "Trăng đợi trước thềm" thành "Dư âm của biển". Tất nhiên đó là ý muốn hết sức chủ quan, biết đâu "Trăng đợi trước thềm" là một ẩn ý sâu xa của tác giả mà tôi chưa hiểu thấu. Cũng như thơ của anh làm sao ta có thể hiểu hết vì làm sao ta hiểu hết cuộc đời và tâm trạng của NHÀ THƠ!

Huế, tháng 8-1988
M.V.H
(SH34/12-88)


----------------
[1]. Nhân đọc tập thơ "Trăng đợi trước thềm" của Hải Bằng - NXB Thuận Hóa 1988.








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.

  • LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

  • HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.

  • LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H

  • NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.

  • Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.

  • TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.

  • PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)

  • NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.

  • LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.

  • THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…

  • VŨ DUY THÔNG        (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.

  • TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.

  • NGUYỄN THANH TÚ          (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)

  • LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.

  • FAN ANHCon người khác con vật không chỉ ở đặc điểm con người có một bản ngã, một cái tôi luôn biến động, mấu chốt nằm ở chỗ, con người có thể có nhiều bản ngã khác nhau, tồn tại một cách âm thầm trong những thế giới mà nhiều khi ngay bản thân mỗi cá nhân chúng ta cũng không thể am tường hết.

  • VĂN CẦM HẢI(Nhân đọc “Giọng nói mơ hồ” - Nguyễn Hữu Hồng Minh. Nxb trẻ 1999)

  • ĐỖ NGỌC YÊNHồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử có thật. Hơn nữa ông đã từng làm đến chức quan Thái sư dưới thời nhà Trần khoảng từ năm 1370 - 1400, và lập nên nhà Hồ từ năm 1400 - 1407.

  • Phỏng vấn nhà nghiên cứu Nguyễn Việt - chuyên viên Hiệp hội CLB UNESCO Việt Nam – nhân cuộc triển lãm thư pháp thơ “Nhật ký trong tù” của Bác Hồ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế 8-2000

  • LÊ HUY QUANGVào ngày 19/5/2010 này, cả nước ta sẽ tưng bừng Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân Văn hóa thế giới, nhà thơ Hồ Chí Minh, một người Việt Nam đẹp nhất.