Đồng hồ một kim của Phan Trung Thành - Sự khuyết tật bản nguyên

17:12 16/01/2009
LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.

Không hiểu vì sao khi đọc tập thơ “Đồng hồ một kim” của anh, tôi lại liên tưởng đến những chiếc đồng hồ khuyết tật trong những bức tranh của cố hoạ sĩ Bửu Chỉ. Sự mất mát, gãy đổ, không nguyên vẹn của những chiếc đồng hồ như một nỗi ám ảnh trong tiềm thức mà nhiệm vụ của người nghệ sỹ phải khai phá, hàn gắn và làm trỗi dậy sự thăng hoa trong xã hội mình đang tồn tại.
Trong tập thơ “Đồng hồ một kim” đầy ắp những sự kiện đang vây bủa những xã hội chưa ổn định, như những bức tranh dang dở chưa định hình. Thật khó hình dung giữa dòng chảy mãnh liệt và hỗn loạn của đời sống đô thị, Phan Trung Thành chợt ngoái đầu nhìn lại và vẽ lên bức tranh đó bằng chiếc “Đồng hồ một kim”. Đó là loại đồng hồ tân kỳ trong thi ca, xa lạ với tất cả những kiểu dáng...

Sự thể nghiệm một phong cách mới trong thơ của Thành, như một bước tiên phong nhằm phê phán cái xấu của xã hội hiện đại đang bị quán tính đen điều động. Tôi mạo muội gọi “Đồng hồ một kim” của Phan Trung Thành là phóng sự thơ đầu thế kỷ XXI, là “Mười viên gạch” của thể nghiệm mới đầy tính nhân văn, và đó cũng là lời cảnh báo cho những nhà thiết kế xã hội:
Con số đau lòng
Đất nước này có bốn mươi ca tử vong vì tai nại giao thông mỗi ngày
hay
Nhiều ngày ngập ứ thông tin
Nhiều thứ không kịp định dạng
đưa vào sọt rác

Trong thế giới của sự bùng nổ thông tin ngày nay, bản chất của thông tin luôn có hai mặt. Mang lại niềm vui và khơi dậy nỗi sợ hãi vốn tiềm ẩn trong mỗi cá thể.
Cho dù trong bóng đêm, trong những căn phòng kín kẽ, chúng ta cứ ngỡ mọi điều rất kín đáo, nhưng trong viên gạch thứ năm, nhà thơ đã chỉ ra những khe hở bí mật mà người trong cuộc mới được biết:
Kín và hở
Cuộc này anh chi đúng tinh thần
Kinh phí đến đâu giải phóng mặt bằng / đến đó

Tất cả mọi người đều biết / quen chạy
nhưng bao giờ biết ... Không ăn?
Những câu hỏi của Thành tồn tại dai dẳng và phi lý từ xưa đến nay, như bản năng sống chưa được tiến hóa của con người. Để rồi những trăn trở đau xót đó đã khiến nhà thơ dự báo cho chính mình khi nhập viện Chợ Rẫy cho ca mổ tim đầy nguy hiểm:
Tôi thường chọn sân bay hoặc bệnh viện Chợ Rẫy làm nơi xả stress
tụt huyết áp
loạn nhịp

Người nghệ sỹ nếu không có trái tim đầy xúc cảm, không cảm nhận nỗi đau của xã hội, thì ngoài tài năng ra họ sẽ làm được điều gì ?! Đó là lúc nhà thơ đặt lên những câu hỏi:
“Tại sao dân tộc tôi phải đau đớn chứng kiến những điều mình không muốn...”
và anh đã dùng công cụ của người nghệ sỹ để:
Thắp nén nhang
tôi phản đối những kẻ thô bạo
những kẻ mất nhân tính
chà đạp cô dâu Việt
Sự đấu tranh của người nghệ sỹ trước những bất công của xã hội không gì hơn ngoài tác phẩm của chính mình, đó là điều mà rất ít nghệ sỹ thời nay thực hiện?
Khi mà mọi giá trị xã hội nhập nhằng, trắng đen lẫn lộn, Thành đã cảm nhận sự hỗn loạn:
cà phê lạc soong
nhạc lạc soong
vỉa hè lạc soong
em bên lề mong ngóng lạc soong
...
cổng chợ cổng chùa
nhà thương trại hòm
bụi đè lên bụi
nơi ta nhập cư
xe rác nghiền nát

Giữa những hoảng loạn của sự ô nhiễm đầu thế kỷ XXI, thi sĩ chợt tiếc nuối những chiều thứ bảy dạo phố ngắm tóc dài:
Ngã tư Bốn xã
mười năm đầu thế kỷ Hai mốt
nơi anh nhập cư
lấm lem bụi khói
lấm lem sông suối
ổ voi, khủng long
ngập ngụa hàng Tàu
ung thư nám phổi
làm sao nhận ra em kiếng đen khẩu trang?
còn đâu Sài Gòn chiều thứ Bảy
dong xe ngắm phố tóc dài
anh yêu phố yêu đời bầm dập

Và rồi qua những con chữ biết vui buồn, những con chữ rưng rưng nước mắt, tác giả như cảm nghiệm được sự bất lực của chính mình, khi mà sức mạnh của cái xấu liên kết lại, khi mà tâm thức xã hội bị đậy che bởi những đám mây xám,... người nghệ sỹ đã phải thét lên:
biết làm sao, biết làm gì được
biết làm gì hơn im lặng ngoài đường?
Như vậy đó, sự khuyết tật của một thế giới đã tạo ra đầy rẫy sự phi lý, chúng tồn tại một cách thản nhiên trong xã hội. Như văn hào Albert Camus đã trải nghiệm. Không còn cách nào hơn, là chúng ta, những người nghệ sỹ hãy đón nhận sự phi lý và chia sẻ cùng thi sĩ Phan Trung Thành.
Huế, 2008
L.H.L

(nguồn: TCSH số 239 - 01 - 2009)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.