Đôi điều về tiếng địa phương trong văn học

15:35 24/11/2009
AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.

Trong bài "Nhớ", ông viết:
"- Đằng nớ vợ chưa?
 - Đằng
nớ?
 - Tớ còn chờ độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp.
Nhìn
o thôn nữ cuối nương dâu"

Rồi:
" Đồng chí nứ vui vui.
 Đồng chí
nứ dạy tôi dăm tối chữ
 Đồng chí
nhớ nữa
 Kể chuyện Bình Trị Thiên
 Cho
bầy tôi nghe "
 Bếp lửa rung rung đôi vai đồng chí.
 - Thuở trong
hiện chừ vô cùng gian khổ"

Cả 4 câu kết, cũng đầy tiếng địa phương Thanh Hóa:
"Nhìn trời sương nhẩm bước chúng tôi đi.
Chúng tôi nhớ nhất câu
ni,
dân chúng cầm tay lắc lắc:
"Độc lập nhớ rẽ
viền chơi chắc!""

Trong 16 câu trích ra đây đã có tới 13 tiếng địa phương. Vậy mà đọc không những không nặng nề, lại có được một không khí là lạ trong bài thơ. Và không lẫn vào đâu được, đây đích thực là ngôn ngữ Thanh Hóa.

Rất tiếc Hồng Nguyên chỉ để lại cho đời một bài thơ duy nhất, là nhà thơ của một bài thơ. Ông mất ở tuổi 30. Nếu không, ông nhất định sẽ có đóng góp lớn cho việc đưa tiếng địa phương vào văn học.

Đưa tiếng địa phương vào văn học, theo cách nói bây giờ, đó là "màu cờ, sắc áo" địa phương, đề tài này đã được đề cập tới nhiều lần, nhất là trong những cuộc đàm thoại ở các địa phương. Đưa thế nào đây, để "tiêu hóa" được, để phổ thông hóa được, mà vẫn là văn, là thơ.Điều đó thật khó.

Đây đó các nhà thơ đã dùng tiếng địa phương trong thơ. Tôi đọc Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, cũng chỉ tìm được hai lần ông dùng tiếng Hà Tĩnh:
- "Đầu lòng hai Tố Nga"

Và:
- "Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung"

Nhà thơ lớn Tố Hữu, người Thừa Thiên Huế cũng dùng tiếng địa phương rất ít:
- "Rứa là hết chiều ni em đi mãi
Còn mong chi ngày trở lại Phước ơi"

Và:
- "Em len lét cúi đầu tay xách gói
Áo quần
cắp chiếc nón le te"

Càng về sau tiếng địa phương trong ông càng ít đi. Những bài hoành tráng như "Việt Bắc", "Bác ơi!", "Ta đi tới", hầu như không thấy bóng dáng tiếng địa phương.

Tại sao ta cứ kêu gọi "màu cờ sắc áo" địa phương, mà lại không đưa được tiếng địa phương vào văn học. Ai cũng muốn làm điều đó cả. Song khó quá. Mà các cây bút bây giờ chưa đủ tài để vượt qua cái mong ước ấy của chính mình. Vả lại hình như sự phổ thông hóa ngôn ngữ trở thành một nhu cầu. Đây đó ta có gặp tiếng địa phương, tác giả đã dùng thành công, bởi đặt đúng được trong VĂN CẢNH. Còn nếu ta cố công nhồi nhét vào, chắc sẽ gặp cái cảnh trong lý luận văn học của Pau-tốp-ski, cái cửa thì hẹp, cái tủ thì to quá, không thể nào đưa cái tủ qua được. Pau-tốp-ski chỉ nói chuyện nhồi nhét chi tiết văn học như vậy, thật khó khăn khôn lường. Mọi so sánh đều khập khiễng, song sẽ rất bất cập nếu ta nhồi nhét tiếng địa phương vào văn học, nếu không tạo được ngữ cảnh cho nó.

Giỏi như Nguyễn Du và Tố Hữu cũng chủ yếu dùng tiếng phổ thông để làm thơ, rõ ràng không phải không có lí. Giá có dịp phỏng vấn được nhà thơ Tố Hữu về vấn đề này chắc sẽ rất thú vị.

Tôi tin rằng dùng tiếng địa phương cho văn học chắc sẽ còn được bàn bạc nhiều.

Gần đây tôi có đọc bộ tiểu thuyết "Mùa lũ Sông Côn" của Nguyễn Mộng Giác. Đề tài về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Địa điểm ở Bình Định. Vậy mà suốt 2000 trang tiểu thuyết không thấy Nguyễn Mộng Giác dùng tiếng địa phương, ông hoàn toàn dùng tiếng phổ thông cả. Nếu nói "Màu cờ sắc áo" rõ ràng đây là dịp rất thuận lợi cho Nguyễn Mộng Giác tung hoành. Như thế có phải có lỗi với quan điểm "màu sắc địa phương" không?

Nhân đây xin kể một chuyện vui. Trong một cuộc nhậu, bạn bè gặp nhau nói cả trăm thứ chuyện, thế nào lại đụng tới chuyện "tiếng địa phương".

Một anh bạn tôi đọc 4 câu Kiều:

"Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng".

Anh cười nói:
- Nếu Nguyễn Du không dùng tiếng phổ thông, mà dùng tiếng địa phương Nghệ Tĩnh, thì 4 câu thơ ấy sẽ đọc là:

Trăm năm trong cõi người choa
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét
chắc
Trải qua một cuộc bể
du
Những điều
ngó trộ mà đau đớn rọt

Tất cả anh em chúng tôi cùng cười với nhau.

Dẫu là chuyện đùa, song thấy rằng nếu tiếng địa phương cố gán ghép, và không đúng văn cảnh của nó sẽ thấy lộ ra sự ngô nghê không thể nào chịu được và nó phá tan nát cả văn chương như một trận B52 dội vào rừng đại ngàn của chữ nghĩa.

Ấy là chuyện vui, trộm phép cụ Nguyễn Du, mong hương hồn cụ thông cảm cho con cháu đã láo lếu đem chữ nghĩa, thơ của cụ ra mà cười đùa. Xin lấy lòng tôn kính làm nén hương mong cụ đại xá cho.

Có thành ngữ mới, cũng là thành ngữ vui: "Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam". Ngôn ngữ của chúng ta cũng đang "bão táp" vậy thay.

Riêng tiếng địa phương dùng cho văn chương thế nào, rất mong bạn bè xa gần đàm luận cho vui.

A.C
(126/08-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ QUANG THÁIVăn khảo luận ít khi viết năm Mão như văn nói thông thường, chỉ vì chưa định rõ năm nào trong các năm: Ất Mão, Đinh Mão, Kỷ Mão, Tân Mão, Quý Mão. Cho nên, không thể dịch ra tiếng Anh: “Year of the cat” một cách vô tư lự được. Viết quảng cáo lớn chữ “Xuân Tân Mão, 2011” mà lại dịch một cách tùy tiện như trên hẳn là chưa ổn.

  • NGUYỄN DƯ…Bốn cột lang, nha cắm để chồng/ Ả thì đánh cái, ả còn ngong/ Tế hậu thổ khom khom cật,/ Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng/ Tám bức quần hồng bay phới phới,/ Hai hàng chân ngọc đứng song song./ Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,/ Cột nhổ đem về để lỗ không.                                 (Cây đánh đu, Hồng Đức quốc âm thi tập)…

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGTôi mới đọc Xuân Quỳnh gần đây: với tôi, thơ chị ở quá xa. Nhưng càng đọc càng gần lại. Vì chị thường nói về thời gian: Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế/ Chỉ em là đã khác với em xưa

  • LƯƠNG ANMiên Thẩm là một nhà thơ hoàng tộc có tiếng giữa thế kỷ 19. Qua thơ văn ông, chúng ta gặp một con người, tuy bị giai cấp xuất thân hạn chế rất nhiều, song vẫn biểu hiện một ý thức thương dân và một tinh thần lo lắng cho vận mệnh đất nước vốn không phải phổ biến trong tầng lớp nhà nho - trí thức phong kiến lúc bấy giờ.

  • PHONG LÊGiá Bác không đi Trung Quốc? Hoặc giá Bác không bị bọn Tưởng bắt giam? Hoặc nữa, đã có tập thơ, nhưng năm tháng, chiến tranh, cùng bao nhiêu sự cố khiến cho tập thơ không còn về được Viện bảo tàng cách mạng?

  • L.T.S: Bài viết của Trần Đình Sử về đóng góp của thơ Tố Hữu trong việc phát triển thể tài thơ chính trị và khuynh hướng sử thi trong biểu hiện không phải không có nhiều chỗ phải bàn cãi. Tuy nhiên tạp chí vẫn coi đây là một cách tiếp cận mới để khám phá nguồn thơ phong phú của một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Xin giới thiệu bài tiểu luận này để bạn đọc cùng suy nghĩ trao đổi.

  • ĐÔNG HÀVăn chương bắt nguồn từ cuộc sống. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vậy, mỗi trang viết của anh là một sự khởi nguyên rất chân thật. Không thiên về lối miêu tả nhưng bằng cặp mắt tinh tế sắc sảo của mình, Hoàng Phủ đã “nói” về cuộc sống từ những tinh chất của thiên nhiên và con người Huế đọng lại dưới ngòi bút của anh.

  • VÊ-RA CU-TÊ-SƠ-CHI-CÔ-VAVê-ra Cu-tê-sơ-chi-cô-va là tiến sĩ ngữ văn, giáo sư nghiên cứu ở Học viện Gorki về văn học thế giới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.

  • NGUYỄN HOÀN Nhạc Trịnh Công Sơn lâu nay đã “chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà ở cả bên ngoài biên giới nữa” (Văn Cao).

  • PHAN NGỌC1- Trong việc nghiên cứu Truyện Kiều, xu hướng xưa nay là đưa ra những nhận xét căn cứ vào cảm thụ thẩm mỹ của mình. Những nhận xét ấy thường là rất tinh tế, hấp dẫn. Nhưng vì quan điểm khảo sát là chỉ phân tích những cảm nghĩ của mình căn cứ đơn thuần vào Truyện Kiều, không áp dụng những thao tác làm việc của khoa học hiện đại, cho nên không tránh khỏi hai nhược điểm:

  • ĐẶNG TIẾNMèo là thành phần của tạo vật, không hệ thuộc loài người, không phải là sở hữu địa phương. Nói Mèo Huế là chuyện vui ngày Tết. Đất Huế, người Huế, tiếng Huế có bản sắc, biết đâu mèo Huế chẳng thừa hưởng ít nhiều phẩm chất của thổ ngơi và gia chủ?

  • TRIỀU NGUYÊNCó nhiều cách phân loại câu đối, thường gặp là ba cách: dựa vào số tiếng và lối đặt câu, dựa vào mục đích sử dụng, và dựa vào phương thức, đặc điểm nghệ thuật. Dựa vào số tiếng và lối đặt câu, câu đối được chia làm ba loại: câu tiểu đối, câu đối thơ, và câu đối phú. Bài viết ngắn này chỉ trình bày một số câu đối thuộc loại câu tiểu đối.

  • KHÁNH PHƯƠNGNăm 2010 khép lại một thập kỷ văn học mang theo những kỳ vọng hơi bị… “lãng mạn”, về biến chuyển và tác phẩm lớn. Nhiều giải thưởng của nhiều cuộc thi kéo dài một vài năm đã có chủ, các giải thưởng thường niên cũng đã… thường như giải thưởng, nhà văn và bạn đọc thân thiết hồ hởi mãn nguyện tái ngộ nhau trên những đầu sách in ra đều đặn… và người thực sự quan tâm đến khía cạnh nghề nghiệp trong đời sống văn chương lại tự hỏi, những sự kiện đang được hoạt náo kia có mang theo trong nó thông tin gì đích thực về thể trạng nghề viết hay không? Nếu có, thì nó là hiện trạng gì? Nếu ngược lại, thì phải tìm và biết những thông tin căn bản ấy ở đâu?

  • MIÊN DIVẫn biết, định nghĩa cái đẹp cũng giống như lấy rổ rá... múc nước. Vì phải qui chiếu từ nhiều yếu tố: góc nhìn, văn hóa, thị hiếu, vùng miền, phong tục... Tiểu luận be bé này xin liều mạng đi tìm cái chung cho tất cả những góc qui chiếu đó.

  • INRASARA1. Điểm lại mười căn bệnh phê bình hôm nay

  • XUÂN NGUYÊNHơn ở đâu hết, thơ mang rất rõ dấu ấn của người làm ra nó. Dấu ấn đó có thể là do kinh nghiệm sống, do lối suy nghĩ… đưa lại. Đứng về mặt nghệ thuật mà nói, dấu ấn trong thơ có thể được tạo nên bởi lối diễn đạt, bởi mức độ vận dụng các truyền thống nghệ thuật của thơ ca.

  • Linda Lê, nhà văn nữ, mẹ Pháp cha Việt, sinh năm 1963 tại Đà Lạt, hiện đang sống tại Paris, viết văn, viết báo bằng tiếng Pháp. Một số tác phẩm của nhà văn đã được dịch sang tiếng Việt và xuất bản tại Việt Nam như là: Vu khống (Calomnies), Lại chơi với lửa (Autres jeux avec le feu). Chị đã có buổi nói chuyện tại Trung tâm Văn hóa Pháp tại Huế vào ngày 15.10.2010 vừa rồi. Sau khi trao đổi về bản dịch, chị đã đồng ý cho phép đăng nguyên văn bài nói chuyện này ở Tạp chí Sông Hương theo như gợi ý của dịch giả Lê Đức Quang.

  • LÊ TIẾN DŨNGKhi nói đến thơ một vùng đất, thường người ta vẫn chú ý nhiều đến những vấn đề như tác phẩm, thể loại, đội ngũ… nghĩa là tất cả những gì tạo nên phong trào thơ của một vùng.

  • LẠI NGUYÊN ÂN(Trích đăng một phần tiểu luận)