Đọc xuôi một bài ca dao nói ngược

09:56 21/02/2020

ĐỖ LAI THÚY

Bước sang tháng sáu giá chân
Tháng một nằm trần bức đổ mồ hôi 

Ảnh: internet

Bài ca dao mở đầu bằng sự nói ngược về thời tiết: mùa hè thì lạnh, mùa đông thì nóng. Sự không thuận ở thiên nhiên này dường như là điềm báo trước những sự không thuận lợi ở con người và xã hội con người theo cái quan niệm thiên nhân tương cảm tưởng như ngây thơ nhưng lại rất sâu sắc nào đó. Bàn chân buốt giá và cái lưng trần bức đổ mồ hôi là những ngôn từ duy nhất nói về con người, sự giao tiếp trần trụi của nó với thiên nhiên, trong một bài thơ nói về những con vật. Nó thổi một hơi thở nhân hóa làm sống động thế giới không có ý thức, và là một tín hiệu chỉ ra tính chất ngụ ngôn của bài ca dao đồng thời chuẩn bị cho người đọc một tâm lý tiếp nhận.

Kế đó bài ca dao tiến ngay đến đỉnh điểm. Trên bình diện thứ nhất của bức tranh là hình ảnh con chuột, một con vật nhỏ bé, còm nhom phải làm một công việc không thể làm nổi là kéo cày trong khi con trâu sức vóc to lớn ngồi trong cong bốc gạo ăn:

Con chuột kéo cày lồi lồi
Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong


Hòn đá trong truyện cổ tích nhìn thấy một con chó kéo cày đã bật cười, nhưng nếu thay vào đó là con chuột thì đá phải bật khóc. Con chó kéo cày chỉ sự đi chệch khỏi trật tự thông thường của sự vật ít nhiều đủ để tạo ra sự hài hước, còn con chuột mà làm việc ấy thì đã là sự đảo ngược trật tự của sự vật, nhất là trong sự qui chiếu với hình ảnh con trâu ở câu dưới, thì không thể không gây ra cảm giác thương tâm.

Đó là hoạt động sản xuất, còn đây là hoạt động chiến đấu:

Voi kia nằm ở gậm giường
Cóc kia đánh giặc bốn phương nhọc nhằn.


Cái cặp chuột-trâu, voi-cóc là những nốt bi-hài vừa đối lập nhau, vừa quyện chặt lấy nhau trong một câu sáu tám, tạo ra cảnh "cười ra nước mắt". "Trào phúng và bi kịch là hai chị em sinh đôi có cùng một cái tên là sự thật" (Đốtxtôiépxki), sự thật trong hiện thực đời sống và sự thật trong sự tự nhận thức của người đọc.

Chuột, cóc là thân phận của người nông dân Việt trong làng xã cổ truyền của họ - một xã hội tiểu nông nửa công xã, nửa phong kiến với nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp, tù đọng, bế tắc. Ở đây mọi thang bậc giá trị bị đảo lộn:

Hòn đá dẻo dai, hòn xôi rắn chắc
Gan lợn thì đắng, bồ hòn thì bùi
Hương hoa thì hôi, nhất thơm thì cú...


Mọi vật cũng dường như không ở đúng chỗ của chúng, không được sử dụng đúng chức năng của chúng:

Vườn rộng thì thả rau rong
Ao sâu giữa đồng vãi cải lấy ngồng làm dưa
Một đàn con bò đi tắm đến trưa
Một đàn con vịt đi bừa ruộng nương


Những cảnh tượng ngược đời còn lại của bài ca dao được vẽ lại bằng gam màu sẫm hơn, âm thanh trầm hơn, độ lùi xa hơn vừa làm nền, vừa là sự giải thích, lời ghi chú bên góc bức tranh.

Trung thành với quan niệm thẩm mỹ dân gian, bài ca dao cũng muốn hướng tới một kết thúc có hậu, tác giả dường như đưa ta đi ngược dòng thời gian trở về một thời đại cổ tích nào đó, "thuở ấy con người làm ăn dễ dàng, đến vụ lúa má ngoài đồng cứ tự nhiên kéo nhau về nhà...", thậm chí:

Lươn nằm cho trúm bò vào
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô
Thóc giống cắn chuột trong bồ
Một trăm lá mạ đuổi vồ con trâu...


Nhưng tha thiết hơn cả vẫn là ước muốn có một sự thay đổi lớn - trời mưa - để những con vật nhỏ yếu có thể xoay đảo số phận:

Trời mưa cho mối bắt gà
Thòng đong cân cấn đuổi cò lao xao
Chim chích cắn cổ diều hâu
Gà con tha quạ biết đâu mà tìm


Trong không khí nặng nề u uẩn của bài ca dao, những câu thơ ước kia như một hơi thở phào nhẹ nhõm, một đốm sáng lung linh trên nền đen kịt. Nhưng rồi bài ca dao được chốt lại cân bằng những câu khẳng định sự ngược đời còn đang tiếp tục tồn tại, như muốn nhấn mạnh rằng ước mơ vẫn chỉ là ước mơ, rằng cái đốm sáng lung linh kia không xua tan được bóng tối mà chỉ làm cho người ta cảm thấy sâu sắc sự dày đặc của bóng tối.

Cơ chế nói ngược của bài ca dao, thực ra, rất đơn giản. Từng cặp những con vật, sự vật đối lập nhau về đặc tính, lối sống, sự hoạt động "hoán vị" nhau tạo nên những nghịch cảnh phi lôgic. Đó là điều ấn tượng mạnh vào đầu óc chúng ta vốn dễ mòn nhẵn, trơ lỳ vì nhu cầu tự động hóa của nhận thức. Nói bằng lý luận hiện đại đó chính là sự lạ hóa, sự phá vỡ trật tự thông thường, quen thuộc của sự vật rồi cấu trúc lại theo một ý đồ tư tưởng và nghệ thuật nhất định. Sự nói ngược của bài ca dao không chỉ là một yếu tố hình thức mà còn là một yếu tố nội dung, bởi thế hiệu quả thẩm mỹ do nó mang lại thật to lớn, thức tỉnh sự tự ý thức trong tâm hồn bạn đọc.

12.1986
Đ.L.T
(TCSH47/01&2-1992)

--------------------
(1) Nguyên văn:

Bước sang tháng sáu giá chân
Tháng một nằm trần bức đổ mồ hôi.
Con chuột kéo cày lồi lồi,
Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong.
Vườn rộng thì thả rau rong,
Ao sâu vãi cải lấy ngồng làm dưa.
Đàn bò đi tắm đến trưa,
Một đàn con vịt đi bừa ruộng nương.
Voi kia nằm ở gậm giường,
Cóc kia đánh giặc bốn phương nhọc nhằn.
Chuồn kia thấy cám liền ăn,
Lợn kia thấy cám nhọc nhằn bay qua.
Trời mưa cho mối bắt gà,
Thòng đong, cân cấn đuổi cò lao xao.
Lươn nằm cho trúm bò vào,
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Thóc giống cắn chuột trong bồ,
Một trăm lá mạ đuổi vồ con trâu.
Chim chích cắn cổ diều hâu,
Gà con tha quạ biết đâu mà tìm.
Bong bóng thì chìm, gỗ lim thì nổi.
Đào ao bằng chổi, quét nhà bằng mai.
Hòn đá dẻo dai, hòn xôi rắn chắc.
Gan lợn thì đắng, Bồ hòn thì bùi.
Hương hoa thì hôi, nhất thơm thì cú.


(theo Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc)


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRỊNH SÂM

    Trải qua biết bao thời đại, mèo đã trở thành con vật quen thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam.

  • NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG

    Làm thế nào để biết một biểu thức ngôn từ [BTNT] do dân gian sáng tác ra là một đơn vị tục ngữ? Chứ không phải là thành ngữ hay ca dao? Mục đích chính của bài này là đi tìm một câu trả lời thỏa đáng cho mấy câu hỏi vừa nêu.

  • NGUYỄN ĐỨC DÂN Có một giai thoại về Nguyễn Khuyến như sau: Làng Cổ Ngựa có ngôi đền thờ thánh mẫu thu hút khá nhiều người đến lễ bái. Nhằm kiếm chác đám người mê tín, hào lý trong làng xuất quỹ xây lại đền to hơn, đẹp hơn.

  • Mai Văn Tấn tên thật là Mai Văn Kế. Sinh ngày 12-9-1931 tại Lệ Ninh Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.

  • THANH TRẮC NGUYỄN VĂN1. Tiểu Hổ gặp họa

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGTừ trước đến nay, không có lễ tục nào được nhắc đến nhiều trong truyện cổ của người Pacô bằng tục Pộôc xu (Đi sim), đây là một nét văn hóa truyền thống từ xưa của người Pacô. Mặc dầu đến nay do lối sống hiện đại nên nhiều nét văn hóa truyền thống mất đi, song không vì thế mà chúng ta quên nó. Đâu đó trong cuộc sống cộng đồng của người Pacô ngày nay vẫn còn nhiều câu chuyện kể về tục này. Nhân dịp xuân về xin được nêu ra đây nét đẹp trong lễ tục quan trọng đó.

  • L.T.S: Dân tộc Kơ-tu là một trong bốn dân tộc sống ở tỉnh Bình Trị Thiên, tập trung ở vùng Nam Đông, huyện Phú Lộc. Trước đây dân tộc Kơ-tu đã sát cánh cùng các lực lượng giải phóng tiến hành cuộc đấu tranh anh dũng chống lại bè lũ Mỹ ngụy. Ngày nay, dân tộc Kơ-tu đang vững bước đi lên trong công cuộc lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống mới. Cũng như các dân tộc khác, người Kơ-tu không chỉ anh dũng trong chiến đấu, cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất mà còn có một nền văn nghệ dân gian rất phong phú và độc đáo. Bài viết sau đây là một nét phác họa trong chương trình giới thiệu nền văn học dân gian các dân tộc ít người ở tỉnh Bình Trị Thiên của chúng tôi.

  • VĨNH QUYỀNTừ lâu điều kiện thiên nhiên cũng như điều kiện xã hội đều thuận lợi cho mối quan hệ giữa hai dòng thơ ca dân gian Bình Trị Thiên và Quảng Nam.

  • NGUYỄN TIẾN VĂNMột trong những câu ca dao rất thông dụng phổ biến nhưng không phải là đơn giản và dễ nắm bắt nội dung: “Không chồng mà chửa mới ngoan/ Có chồng mà chửa thế gian sự thường”. Ở đây mắt của câu này là chữ ngoan. Vậy ngoan là gì?

  • VĨNH QUYỀNMười hai con giáp, chuột đứng hàng đầu. Kể cũng lạ?Hình dạng bé nhỏ xấu xí, phẩm cách hèn hạ đáng khinh, thế mà chuột được người xưa xếp trước cả những con vật uy mãnh như hổ, linh hiển như rồng. Đã thế, năm Tý – với biểu tượng con chuột, còn là năm đầu của một kỷ, chu kỳ 60 năm.

  • LƯƠNG ANCũng như nhiều vùng khác trên đất nước Việt Nam, ở Bình Trị Thiên chúng ta, các danh lam hoặc các ngọn núi cao, các dòng sông lớn thường có một truyền thuyết dân gian dính với nguồn gốc của nó. Sông Thạch Hãn, con sông lớn nhất vùng Quảng Trị cũ, cũng vậy.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Khái quátSở dĩ người nghe (đọc) truyện cười phát ra được tiếng cười, bởi vì lí trí, tình cảm của họ gặp phải điều không bình thường: thay vì họ tưởng cuối cùng nhân vật sẽ nói, sẽ làm điều “A”, thì hoá ra nhân vật đã nói, làm điều “B”, thậm chí “không A”. Tức trí tuệ, cảm xúc đã không lường trước, đã bị đánh lạc hướng trước đối tượng đang quan tâm. Và thông thường, càng lạ lẫm, bất ngờ, tiếng cười càng sảng khoái, thú vị.

  • VĂN NHĨĐường Trường Sơn huyền thoại đã đi vào sử thi như một bản anh hùng ca của thời đại Hồ Chí Minh. Nhiều bài thơ, bài hát viết về Trường Sơn đã vượt qua biên độ của thời gian mãi mãi rung động lòng người.

  • LAN PHƯƠNGKho tàng âm nhạc dân gian của dân tộc Thái vùng Tây Bắc rất phong phú và đa dạng. Bất cứ nơi đâu trong bản làng của người Thái đều có thể thấy có các làn điệu dân ca thể hiện rõ phong cách riêng của mỗi vùng mà nguyên nhân do sự truyền lại cho các thế hệ theo cách cảm thụ và rung động riêng của mỗi nghệ nhân. Trong đó không thể thiếu tiếng cây đàn tính tẩu.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Một bộ phận truyện cổ tích sinh hoạt có yếu tố tạo ra tiếng cười đã bị nhầm lẫn là truyện cười. Sự nhầm lẫn này đã xảy ra ngay cả với những sách sưu tập được cho là nghiêm túc.

  • TRIỀU NGUYÊN Trong những dịp cúng lễ, lễ lạt, hiếu hỉ, và đặc biệt là vào dịp Tết, rượu thường được nhắc đến, và có khi trở thành quan trọng hàng đầu: "Vô tửu bất thành lễ".

  • TRIỀU NGUYÊNCó một số bài ca dao dùng hình ảnh "đèn hạnh", xin dẫn ra dưới đây ít bài:(1)           Đêm khuya đèn hạnh thắp lên,                Vì chưng thương nhớ cho nên đi tìm.

  • PHAN XUÂN QUANGĐồng Tranh là một làng nổi tiếng trù phú một thời ở Quảng Nam. Làng này hiện còn lưu truyền một câu đối cổ có liên quan đến làng Gia Hội, Huế:Văn Đồng Tranh, võ Đồng Tranh, văn võ Đồng Tranh long hổ bảngQuân Gia Hội, thần Gia Hội, quân thần Gia Hội phụng hoàng trì.Câu đối này còn một số dị Bản, có khác một đôi chữ nhưng câu trên đây theo nhiều người là chính nhất và phổ biến hơn cả.

  • TRIỀU NGUYÊN  Từ ngữ cùng nghĩa là những từ ngữ gần nhau về ý nghĩa, nhưng khác nhau về âm thanh. Có ba kiểu cùng nghĩa trong tiếng Việt, là cùng nghĩa giữa từ ngữ thuần Việt (TV) với từ ngữ thuần Việt, cùng nghĩa giữa từ ngữ thuần Việt với từ ngữ Hán Việt (HV), và cùng nghĩa giữa từ ngữ Hán Việt với từ ngữ Hán Việt. Câu đối chơi chữ theo cách cùng nghĩa, có hai hình thức: tạo các từ ngữ cùng nghĩa xuất hiện trên cùng một văn bản ngắn; và cách cùng nghĩa có kết hợp với các hình thức chơi chữ khác.