HỒNG NHU
Tạp chí Thơ số tháng 10 năm 2012 in bài “Hiểu và dịch bài thơ Đường Khúc Lương Châu như thế nào” của Phạm Thức. Tôi liền đọc ngay vì nói chung về Đường thi hàng nghìn bài nổi tiếng và nói riêng về tác giả là một nhà thơ tài danh: Vương Hàn.
Bài thơ "Khúc Lương Châu" viết bằng chữ Hán - Ảnh: internet
Ông Phạm Thức, dịch nghĩa bài “Khúc Lương Châu” là: “Muốn uống rượu quý bồ đào (rượu nho) bằng ly dạ minh quang và thưởng thức khúc nhạc tì bà, vậy thì hãy uống ngay đi còn chần chừ gì nữa. Cho dù có say túy lúy nghiêng ngả ngoài sa trường thì xin anh đừng chế giễu chê cười. Vì xưa nay lính trận mấy ai về mà còn giữ gìn chi nữa”.
Tôi lập tức nghĩ ngay và ngẫm suy mãi ngày này sang ngày khác. Tôi cho rằng ông Phạm Thức đã nghĩ và viết có thể là chưa đúng chưa đủ, chưa hay. Trong bài thơ 4 câu của Vương Hàn, qua giới văn thơ và nói chung là nhân dân qua cách đọc và học đều sâu xa đều công bằng:
“Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tì bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiêu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”.
Phạm Thức đã tự cho mình là đúng, các người khác là sai. “Dục ẩm tì bà” ông dịch và viết rõ ràng là: “Muốn uống rượu và thưởng thức tì bà. Uống rượu và nghe khúc tì bà là thú vui tao nhã của người Trung Quốc xưa, cũng như cha ông ta xưa uống rượu gật gù nghe Ca Trù vậy”.
Tôi - một người viết văn, làm thơ nghĩ rằng: “Dục ẩm” là một khối và “tì bà” là một khối khác. Tóm lại là hai công việc khác nhau, cùng một lúc “uống rượu và ngựa đi”. “Mã thượng” và “Mã thượng thôi” là khác nhau và có trường hợp rất giống nhau, tức là “mã thượng” và “thượng mã. Chữ thôi đằng sau không thể ghép vào ngay mà thay đổi văn ngôn và bạch thoại của Trung Quốc. “Mã thượng thôi” là ngay lập tức, ngay tức khắc là bạch thoại hay là văn ngôn? Xin hiểu ngay cho rằng Vương Hàn viết ra là nghĩ đúng nên sử dụng văn ngôn hay bạch thoại. “Mã thượng thôi” của Vương Hàn hoàn toàn khác với “Ngã mã thượng” của từ điển số Trung Quốc (trang 578) đã nêu. “Ngã mã thượng” là tôi lập tức đến. Như vậy, Vương Hàn đã quá đúng quá hay ở đấy. “Mã thượng” hay “thượng mã” của ông đều có ngựa hay ngựa phi.
Trong “Khúc Lương Châu”, ông Phạm Thức nói ở đầu, đã chỉ ra ở Việt Nam ta đã có nhiều dịch giả đều sai như các anh Nguyễn Hà, Trần Trọng Sam, Lê Hữu Giáp, Bùi Khánh Đản, Trương Nam Hương, Ngô Văn Phú và cả cụ Khương Hữu Dụng cả báo “Người cao tuổi” nữa. Ông đã viết: “Tôi đã biết rất nhiều người chữ Hán một chữ bẻ đôi cũng không biết nhưng vẫn đua nhau dịch thơ Đường” và ... “không hiểu trình độ Hán học của các dịch giả này ra sao”...
Đến đây, tôi vội đọc lại toàn bài lần nữa của ông Phạm Thức, và giơ ngay ra trước mặt mình tập “Đường thi tuyển dịch” của Lê Nguyễn Lưu (1845 trang khổ 14,5 x 20,5) do Nxb. Thuận Hóa ấn hành năm 1997. Ông Lê Nguyễn Lưu là một nhà Hán học, nhà thơ, nhà lịch sử văn hóa ở Huế. Thơ dịch của ông Lê Nguyễn Lưu (in cả Hán học và Việt học) như sau: Lương Châu từ (bài hát Lương Châu):
“Rượu đào ngon ngọt chén lưu ly
Toan uống, tỳ bà giục ngựa đi
Chớ mỉa người say nằm bãi cát
Xưa nay chinh chiến mấy ai về.”
“Quân mạc tiếu”: “Chớ mỉa người say” Lê Nguyễn Lưu đã sáng tạo ra một ý hay, một cách nhìn của đứng đắn cách mạng. “Dục ẩm tì bà mã thượng thôi” Lê Nguyễn Lưu đã dịch “Toan uống, tì bà giục ngựa đi” đã làm cho mọi người ở trong ở ngoài đều thấm thía, nhiệt tâm và sôi động. Chữ “mã” ở bài thơ của Vương Hàn đã nói về ngựa ai cũng biết cũng thấy. Quân đội ngày xưa ở Trung Quốc không bao giờ có ngựa như ông Phạm Thức đã hiểu, đã viết, đã chê: “Thật là nực cười, làm gì có con ngựa nào ở đây, mà ai ai cũng giục lên ngựa, giục lên yên, thúc ngựa phi...” “Không hiểu các trình độ Hán học của các dịch giả này ra sao? Hay chỉ sao chép lẫn nhau rồi biến tâu, xáo xào lại?”.
Đến đây, tôi bật cười và không sao không hiểu nổi ông Phạm Thức lại “phê phán” “ghê gớm” như thế. Bài thơ dịch của ông như sau:
“Bồ đào rượu quý chén pha lê
Muốn uống cùng đàn, uống ngay đi
Nghiêng ngã sa trường xin chớ giễu
Xưa nay chinh chiến mấy ai về”
“Xin chớ giễu” và “Nghiêng ngã” dịch cho “quân mạc tiếu” và “túy lúy”. Xin đừng hiểu ra chưa thật đúng vì người khác mà “độp luôn vào mặt người ta”! Sao lại “uống ngay đi” nữa? Làm chi mà bắt người ta như vậy? “Dục ẩm” tức là chưa uống, muốn uống; chứ ai lại giục giã cả, ai lại “nghiêng ngã” như vậy?
Tôi say mê làm điều này hơn mười năm trước bài thơ nổi tiếng của Vương Hàn, sau khi được đi qua thăm Trung Quốc, Hội Nhà văn Trung Quốc hướng dẫn cho đi ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Triết Giang, Quảng Châu v.v...
“Rượu bồ đào chén ngời ánh ngọc
Ngựa giục đi lúc sắp môi kề
Đừng cười nhé, sa trường say khướt
Xưa nay chiến trận mấy ai về”.
(Hồng Nhu dịch)
Ông Phạm Thức đã cho nhà thơ Trương Nam Hương “không thể tùy tiện thay vào đó bằng những viên gạch xỉ được”, bởi vì thơ Đường như một tòa pha lê óng ánh, rất sang trọng và rất uyên thâm; mỗi chữ dùng trong thơ Đường đắc giá ngàn vàng”. Tôi giật mình đắc giá hay đắt giá ? Không khéo sắp đến, tôi cũng bị ông Phạm Thức choảng cho!
Tôi mạn phép đưa ra bản dịch cùng những ý kiến học, đọc của bản thân mình trước bạn đọc. Xin quý vị giảng dạy cho.
H.N
(SH289/03-13)
NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)
LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.
THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.
HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...
BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.
NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.
HỒ THẾ HÀ Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.
TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.
TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.
HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.
NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)
LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)
VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)
NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.
PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)
HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.
PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.