Đọc tiểu thuyết lịch sử “Huế 1885” bàn thêm về nhân vật Tôn Thất Thuyết

14:32 06/01/2012
TRƯƠNG THỊ CÚC - NGUYỄN XUÂN HOA Năm 1885 được đánh dấu bằng một sự kiện lịch sử quan trọng: đêm mồng 4, rạng ngày mồng 5-7-1885 Tôn Thất Thuyết và nhóm chủ chiến trong triều đình nhà Nguyễn đã tiến công vào sào huyệt của thực dân Pháp tại kinh thành Huế, dẫn đến sự bùng nổ của phong trào Cần Vương, một giai đoạn quan trọng trong lịch sử chống thực dân Pháp.

Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Sự kiện lịch sử đó được nhà văn Thái Vũ dựng lại qua tiểu thuyết lịch sử "Huế 1885". Việc tái hiện những sự kiện, sự việc con người sau một trăm năm trên mảnh đất Bình Trị Thiên khói lửa không phải dễ dàng. Nhà xuất bản Thuận Hóa đã thận trọng nói trước "sự thiếu sót về tài liệu là điều không sao tránh khỏi" nên "rất mong bạn đọc góp ý kiến".

Trên tinh thần đó, ở góc độ của người đọc, chúng tôi xin góp một số ý kiến giới hạn trong phạm vi nhân vật Tôn Thất Thuyết, người chủ xirớng của sự
kiện lịch sử Huế 1885.

Một thế kỷ đã qua từ ngày Tôn Tht Thuyết phát lệnh tiến công quân Pháp năm 1885 tại Huế. Một trăm năm đã để lại khá nhiều ý kiến khen chê về ông. Nhận định về Tôn Thất Thuyết qua vai trò lịch sử của ông, chúng tôi nghĩ trước hết không thể không lau sạch những lớp bụi mờ đã phủ lên khuôn mặt lịch sử đó.

Những lời bàn tán chung quanh Tôn Thất Thuyết bị nhiều ngirời, nhất là những kẻ kinh hoàng sau biến cố "thất thủ kinh đô" cường điệu hóa thành những giai thoại ly kỳ, về sau lại được Tr
n Trọng Kim, Phan Trần Chúc, Đào Trinh Nhất và một số người mang nguyên những giai thoại thiếu kiểm chứng để viết lại, tiếp tục tô thêm những ấn tượng không tốt về Tôn Thất Thuyết.

Một người như Tôn Thất Thuyết, tám năm lăn lộn
chiến trường phía Bắc mà đến Tự Đức, người vốn nổi tiếng khó tính với quan lại cũng phải nhận định là "suy nghĩ chu đáo", "tài khí đáng khen", "không phải cuồng dũng như Ông Ích Khiêm, ít học như Trương Văn Đ cho nên Lê Tuấn cũng từng khen là biết lễ"(1). Những chuyện giết trẻ chửi mẹ, tương tự mt số chuyện kể như Tôn Thất Thuyết vặn cổ cô đào hát đi ngang dinh vì đội nón để ngược quai, giết những ai ở gần nơi đóng quân kể cả gà, chó, và thậm chí cả giun dế... tự nó có những đim huyễn hoặc, thiếu lô-gích, có tính cường điệu, song cũng toát lên ý nhằm để bảo vệ một nguyên tắc, một quan đim hoặc tô đậm tính ít nói, ghét n ào của ông. Loại chuyện kể này xét cho cùng cũng có thể xuất phát từ sự cường điệu về một số đặc đim, tính tình và thái độ sống chưa hay ca Tôn Thất Thuyết.

Tôn Thất Thuyết trấn
áp những phần tử chủ bại dẫu đúng vẫn là điều hợp lý. Đt trong tình thế 1885, trấn áp những phần tử đầu hàng, phản bội để bảo vệ cuộc chiến đấu là điều phải làm, nhất là đối với nhng người giữ trọng trách như Tôn Thất Thuyết, phương pháp làm và mức độ xử lý lại là vấn để khác. Đọc một ít thơ văn của Tôn Tht Thuyết may mn còn sót lại, tìm qua bài vè Thất thủ kinh đô để hiểu nhân dân lao động Huế đánh giá về ông, chúng ta thấy truyền thuyết kể về con người hiếu sát hoàn toàn xa l với con người Tôn Thất Thuyết được nhân dân khắc họa và thơ văn ông phản ánh lại.

Một con người để câu đ
i trước đền thờ mà lại thấy "núi dựng như vách, mặt suối bằng phng như mặt ao, mây nước mơ hồ như ngoài cõi đi", thấy "trăng là đèn, gió là quạt, trúc tùng đứng yên trong vùng cũ" phải chăng là một con người "vô học", "nóng nảy nói càn" hay phải là một người có tâm hồn sâu lng, có một tấm lòng nhạy cảm. Ngồi nhìn chim én bay trong mưa gió tơi bời, Tôn Thất Thuyết thương cảm hỏi sao chim không về nương thân chốn đình đài mà lại bay mãi bên góc rừng mưa gió.

Hà sự đình đài h
bt quy?
S
ơn biên phong vũ cộng phi phi.
(V
ũ trung phi yến)

Người mà vè Th
t th kinh đô kể lại trên đường tp kết quân để rời kinh đô ra bưng biền, lại khóc với cha vì xót thương vợ con gian nan.

Hai hàng nước mắt ròng ròng,
Th
m thương con vợ mắc vòng gian nan.

và ân cần dặn binh lính:

Chú mô con vợ chưa thành,
Cho về định liệu sở sanh việc nhà

Chú nào còn mẹ còn cha,
Cho về bảo dưỡng vậy m
à cho lui.

Con người đó
dễ lại chém giết bừa bãi, dễ gì lại xem rẻ sinh mạng đồng bào mình. Đọc bài thơ Thuật hoài (Tự nói chí mình) của Tôn Thất Thuyết mới thấm thía tấm lòng của ông:

Lòng
trung không n bỏ Tây châu,
Giữ lấy Thao, Đà, mạn thượng lưu.
Họp đám cô quân nơi viễn cảnh,
C
m ba thước kiếm chém quân thù.
Lẻ loi đất Bc chim hồng nhạn,
Phảng phất trời Nam gió ngựa trâu
.
Báo quốc lòng non sông núi tạc,
Gội bao sương tuyết bạc phơ đầu (
2)

Phan Đình Phùng, người
nổi tiếng trung trực thẳng thn, giữa triều công khai phản đối Tôn Thất Thuyết, đã bị Tôn Thất Thuyết cho bắt trói và cách chức trả về quê, sau đó lại hết lòng theo ông. Ngay trong căn cứ của mình, Phan Đình Phùng đã treo câu đối tự nhắc nh mình ghi sâu lời dạy của quan Khâm tướng Tôn Thất Thuyết:

Liêm binh khâm tướng huấn

Ưu nhục lẫm thần tâm. (3)

Tiến sĩ Nguyễn Quang Bích, thủ lĩnh Cần vương khu Tây Bắc trong thơ của mình đã nói về Tôn Thất Thuyết bằng những từ trang trọng "đại nhân
", "sao ngưu, sao đu", xem ông là ánh sao ngưu lấp lánh thường đêm ngóng tìm (n n ngưu quang hướng dạ tm) (4). Con người đó hn phải có một bản lĩnh thu hút, một tấm lòng không thể đánh giá giản đơn.

***

Con người đó gn một trăm năm gánh chịu nhiều "thiệt thòi": đau lòng vì thế nước ngã nghiêng, nghĩa lớn không thành, cha bị giặc đày, mẹ và vợ bỏ xác trong rừng sâu, em và con hy sinh trong chiến đấu, gia đình phiêu tán, thân thế lưu lạc, ngiròi đời lắm kẻ dị nghị. Phi đến khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, với quan đim nghiên cứu lịch sử dân tộc đúng đắn, một số nhà nghiên cứu như Trần Văn Giàu (trong Phong trào Cn Vương, quyn 3, chng xâm lăng, Hà Nội, 1957), Đinh Xuân Lâm, Triệu Dương, Đặng Huy Vân, Trần Huy Liệu... (trong loạt bài trên tạp chí Nghiên cứu Văn Sử Địa năm 1958 tại Hà Nội) và qua một số tuyn tập văn thơ yêu nước, Tôn Thất Thuyết mới từng bước được nghiên cứu và xác định là một nhà yêu nước, tiêu biểu cho ý chí để kháng chống xâm lược của phong trào Cần Vương, tuy nhiên đây mới là những bài mở hướng, cần phải có những công trình tiếp tục đào sâu.

Lần này, Thái Vũ dựng lại một đoạn đời của Tôn Thất Thuyết, không cần phải trích dẫn, biện luận, phân tích rạch ròi, mà b
ng thủ pháp của người viết tiểu thuyết lịch sử, nhà văn đưa Tôn Thất Thuyết trở lại với Huế 1885 trong tư thế "đường đường chính chính". Tác giả đã cố gắng bám vào một số sự kiện lịch sử, sử dụng vn hiểu biết khá phong phú về triều Nguyễn, để tái hiện lại không khí sôi động của kinh thành Huế trong thời đim trực tiếp đụng đầu với thế lực xâm lược Pháp, không phải từ cửa biển Thuận An, mà lấn sâu đến trung tâm Tử Cấm Thành. Một loạt các nhân vật lịch sử, từ những khuôn mặt tiêu biểu cho nhóm chủ chiến như Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Trần Xuân Soạn, Ông Ích Khiêm, Tôn Thất Tiệp (chứ không phải Tôn Thất Thiệp), Hồ Văn Hin... đến những người chủ hòa và sẵn sàng đi tới chủ bại, thông đồng với Pháp như Dục Đức, Hiệp Hòa, Trần Tiễn Thành. Từ Dụ, Chánh Mông (Đng Khánh), Tuy lý công, Gia Hưng quận công, Thọ Xuân Công, Nguyễn Nhược Thị... những Nho sinh nặng lòng với nước như Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Thượng Hiền, những kẻ hội như Nguyễn Văn Tường, Trương Quang Đản đều được tác hiện. Tác giả đã ý thức không phải ch phản ánh Huế 1885 dừng lại trong sự kin của cung đình, mà cố gắng làm sống lại không khí của các tầng lớp nhân dân, từ những người dân bình thường yêu đất nước như anh Tam, cô Duyên, người lão bộc của Phan Đình Phùng, bà mệ thành nội, ông lão bến đò Phù Lễ, cô Tám Lệ Thủy... đến những Trn Quốc, cô Loan và những tên lính Tây dương khả ố. Tất cả đều xoay quanh một trục lớn là tình thế của đất nước, ca Huế 1885 nhưng từng nhân vật đu bộc lộ được nét riêng về phong cách, về xu hướng chính trị, không đến nỗi bị nắn lại một cách sống sượng.

Riêng với Tôn Thất Thuyết, Thái Vũ đã c
gắng tái hiện cả vóc dáng, tác phong, suy nghĩ và hành động của nhân vật. Trong một số trang, có thể nói chnghĩa đã được Thái Vũ kết lại thành một vòng hoa danh dự, trang trọng đặt lên nấm mồ quạnh hiu của một nhân vật lịch sử (như đoạn tả cuộc hội kiến giữa Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi tại hành cung Quảng Trị). Nhưng đáng tiếc nhà văn đã không dọn sạch lớp cỏ hoang trên nấm mồ cũ, l ch nhiều nơi cỏ gai đã che mất vòng hoa vừa đặt.

Hình như Thái Vũ chưa giải đirợc ám ảnh của một Tôn Thất Thuyết "đa ngh
i, hiếu sát" qua giai thoại, cộng thêm sự nhầm lẫn, tìm hiểu chưa chính xác về thân thế và những chặng đời hoạt động của Tôn Thất Thuyết nên đã làm nhân vật bị méo mó và khập khing trên một số mặt. Tác giả nhầm quan Tướng Tôn Thất Thuyết, (ông thường được gọiquan Tướng để phân biệt với quan Quận Nguyễn Văn Tường) là tướng võ, nên say sưa mô tả tác phong của một võ tướng đầu triều. "Đang ngồi xếp bằng tròn trên sập, quan tướng thân thần Tôn Thất Thuyết bỗng theo một thế võ, búng ngirời xuống đất" (trang 65) để "với tay lấy tấm áo dài đen treo trên mắc áo". Thật ra Tôn Thất Thuyết xuất thân từ quan văn chuyn sang làm việc võ, năm 1869 ông là Án sát Hải Dương, được sung Tán tương (chức quan văn giúp thêm về việc võ), liền đó về kinh làm biện lý bộ Hộ. Năm 1870, sau trận Tô Quốc Hán đánh úp Lạng Sơn, giết Tng đốc quân vụ đại thần ở Bắc Kỳ là Đoàn Thọ, Tự Đức cử Hoàng Tá Viêm làm Thống đốc quân vụ đại thần Lạng - Bằng - Ninh - Thái đi đánh dẹp ; Tôn Thất Thuyết được cử làm Tán tương theo Hoàng Tá Viêm. Đại Nam thực lục chính biên từ tập 32 đến tập 35 cho biết từ 1870 đến 1877 Tôn Thất Thuyết lần lượt giữ các chức vụ chính (không kể những lần giáng cấp) như Bố chính Hải Dương (1872), Tham tán, hưởng hàm Thự Tham tri bộ Binh (1873), hàm Hữu Tham Tri (1874). Tuần vũ Sơn Tây (1874), Thự Tng đốc Ninh - Thái (1875)... Đi chiếu với phẩm cấp quan chế triều Nguyễn, những chức vụ ấy đều là chức quan văn. Tôn Thất Thuyết còn là nhà thơ, phần lớn thơ lưu lại là những bài xướng họa với tiến sĩ Nguyễn Quang Bích.

Những đoạn "nhiều
khi quan Tướng" ni khùng, "chính tay quan Tướng chém người đã làm quan Tướng không bằng lòng" (tr.169). "Tại đây và quanh đây không hề nghe nổi một tiếng động dù nhỏ do con người tạo ra, tất nhiên kể cả tiếng trẻ con khóc, tiếng chó sủa, mèo kêu, gà gáy. Quan Tướng thân thần không thú vị với những tiếng đó, kể cả tiếng dế kêu khi đóng quân. Nếu không, kh chủ có thể bị chém đầu" (tr. 51). Tôn Thất Thuyết đang hỏi chuyện Trn Xuân Soạn, bỗng vung kiếm chặt đứt chân án thư, gi "lính đâu", rồi xách gươm ra hiên, hai người lính từ cng vào sụp lạy, vừa đứng dậy thì "cùng lúc hai chiếc đầu lìa khỏi c" là sự lập lại giai thoại thiếu thận trọng về kiểm chứng và phân tích… Hành động đa nghi và hiếu sát mô tả không xứng với những đoạn tác giả cố gắng dựng lại hình ảnh Tôn Thất Thuyết, một thủ lĩnh chống Pháp.

Công cuộc chuẩn bị tổ chức n
i dậy chống Pháp của Tôn Thất Thuyết về các mặt chính trị, quân sự, ngoại giao đã được nhiều nguồn sử liệu (như Đại Nam thực lục chính biên. Quốc triu chính biên toát yếu, Lịch sử Việt Nam của Hoàng Văn Lân, Thơ Văn Nguyễn Xuân Ôn, Việt Nam Pháp thuộc sử của Phan Khoang...) phản ánh khá chi tiết và phong phú, chưa được tác giả thể hiện, đã làm giảm tính chiến lirợc của cuộc nổi dậy tiến công Pháp năm 1885 tại Huế, trong đó đáng kể là việc Tôn Thất Thuyết nỗ lực củng cố lực lượng chủ chiến tại triều đình, khn trương tăng cường quân đội và chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài như lập trường diễn võ để huấn luyện bắn súng Tây, gởi mật thư yêu cầu các quan ở Bắc kỳ thu thuế, thu thóc gởi về kinh phòng ngừa chiến tranh, cho thu quân phí ở Bắc kỳ bằng tiền và bán thóc ở kho các tỉnh để mua vũ khí. Từ năm 1882, ông đã cho củng cố một số sơn phòng, lần lượt đặt thêm nha sơn phòng Hà Tĩnh, Quảng Nam, tăng cường phòng ngự địch ở Bình Thuận, điều động hai người em ruột lên trực tiếp lo việc xây dựng sơn phòng Quảng Trị (mà chỉ riêng lời khai của Nguyễn Văn Tường với Champeaux thì từ đầu tháng 6-1885, triều đình đã đưa ra Tân Sở hơn 300.000 lượng bạc nén và vàng lá. Mấy ngày trưc khi n ra cuộc tấn công Pháp, Tôn Thất Thuyết còn muốn đưa thêm ở kho nội vụ 700.000 lượng nhưng Tường không đồng ý), lấy danh nghĩa chiêu dân lập ấp, tập hợp các đồng bào miền núi lập thành thôn ấp, Tôn Thất Thuyết đã hình thành dọc Trường Sơn một hệ thống sơn phòng kéo dài từ Quảng Trị đến Ninh Bình, từ Quảng Nam đến Bình Thuận, mở một đường thượng đạo len lỏi từ núi rừng Thanh Hóa ra vùng thượng du Hưng Hóa, có thể liên lạc với Vân Nam, ông còn tìm cách liên kết kích động cuộc nổi dậy chống Pháp ở Campuchia để phân tán lực lượng địch. Tại kinh đô, Tôn Thất Thuyết đã cổ động tinh thần chống giặc của sĩ phu và binh lính (đưa Hoàng Diệu đã chết trước đó khá lâu và số chết trận tại Thuận An vào liệt thờ ở đền Trung Nghĩa để nêu cao sĩ khí, truy tặng 256 người hy sinh Thuận An phẩm hàm, cấp tiền tuất, cấp lúa và cho con cháu khai ấm,...), chủ trương giằng co với Pháp từng bước một để vừa bảo vệ chủ quyền về nội trị và quân sự vừa có điều kiện chuẩn bị cho cuộc tấn công v.v...

Nghĩ cho cùng, đòi hỏi người viết tiểu thuyết lịch sử phải làm việc như một nhà nghiên cứu lịch sử là một yêu cầu có phần khắt kh
e, song trước hết người viết tiểu thuyết cũng phải thu thập tài liệu để chắt lọc và làm bật sự kiện qua ngòi bút thoải mái của nhà văn. Đọc đoạn Thái Vũ dựng lại bui vua Hàm Nghi tiếp sứ thần Pháp trong buổi lễ tấn phong quá vắn tắt, chúng tôi không khỏi liên tưởng đến đoạn Gaulchier kể lại chính sự việc đó (trong Le Roi proscrit Hanoi, 1940). Lúc đến tấn phong Hàm Nghi, phái đoàn Pháp do đại tá Guérier, Khâm sứ Rheinart và thuyền trưởng Wallare dẫn đầu với 25 sĩ quan, 160 lính Pháp, Tôn Thất Thuyết chỉ cho ba tên dẫn đầu vào cửa giữa Ngọ Môn, không được mang gươm; 60 lính và 16 sĩ quan Pháp được vào cửa bên, còn lại phải ngoài. Quân lính và bá quan văn võ triều Nguyễn được giàn giá chnh tề, vua Hàm Nghi không xuống đón, không đứng dậy, chỉ ngồi trên ngai tiếp khâm sứ Pháp. Sau l tấn phong, Tôn Thất Thuyết cho quan hầu đưa phái đoàn Pháp ra cửa bên, thực dân Pháp tức tối, cả kinh thành và cả nước hoan nghênh. Chính Gaulchier viết "Vô tình vị vua trẻ tuổi vừa làm một việc mà ảnh hưởng vang dội lớn lao trong cả nước, khẳng định cho ý chí muốn giữ độc lập và dù Pháp đóng quân Huế thì triều đình vẫn không quỵ lụy trước họ. Thái độ tiêu biểu của vị vua trẻ tuổi ấy là do Hội đồng phụ chính bày vẻ thêm. Hội đồng phụ chính có lý mà tin rằng nhân dân trông vào thái độ của vua để noi theo, xem thái độ ấy như một mệnh lệnh không nói ra bằng lời để nhân dân kháng cự với kẻ mới đến" (Gaulchier, sách đã dẫn, trang 10). Tiếc thay khí thế đó ít được Thái Vũ làm sống lại.

Qua "Huế 1885", Thái Vũ lại trao nh
m cho Tôn Thất Thuyết một vinh dự mà ông không đáng được hưởng, có thể xuất phát từ thái độ quyết liệt của Tôn Thất Thuyết đối với Dục Đức, Hiệp Hòa mà tác giả đã để cho Tôn Thất Thuyết nghĩ "Thiên hạ là của thiên hạ, chứ đâu phải của riêng nhà vua". Theo đà đó, một lần khác Tôn Thất Thuyết lại than thở "Ôi, nếu những năm ấy ta có chút quyền hành như bây giờ thì Phan bình công Hng Tập, Phò mã Trương Văn Chất, cũng như anh em họ Đoàn đâu đã thành người thiên cổ " (chỉ hai vụ chống Tự Đức của Hồng Tập và Đoàn Hữu Trưng). Điều này có thể ngược lại vì sử sách cũng đã ghi khá rõ: Khi Trần Tn và Đặng Như Mai khởi nghĩa Thanh Hóa - Nghệ Tĩnh "đánh cả triều lẫn Tây", lúc đó Tôn Thất Thuyết đang làm Tuần phủ Sơn Tây, ông đã cùng với Hoàng Tá Viêm tự động đem 1.200 quân và voi tiến quân về Thanh Hóa "dẹp loạn" vì đây là quê hương của vua nên cứ đánh rồi tâu sau. Tự Đức được tin này hết lời khen Tôn Thất Thuyết là có lòng với vua nên chưa đánh đã thưng trước cho Hoàng Tá Viêm và Tôn Tht Thuyết thăng hai cấp, đánh thắng xong Tôn Thất Thuyết còn được thưởng thêm 3 th quân công kỷ lục Đại Nam nhất chính biên tạp lục, tập 33, trang 68-70). Vì vậy cũng có khả năng Tôn Thất Thuyết sẽ là người đánh dẹp "giặc chày vôi" hơn là người đồng tình với việc làm của anh em họ Đoàn như Thái Vũ đã viết.

***

Thật ra, giữa Tôn Thất Thuyết và chúng ta đã có khoảng cách trăm năm, xóa đi những lớp bụi mà người đời, nhất là những thế lực thù ông đã gán ghép cho ông không phải dễ, song tìm hiểu một bước về cuộc đời và vai trò lịch sử của Tôn Thất Thuyết, chúng tôi thấy giữa ta và người xưa vẫn còn hòa chung một điệu: đó là lòng yêu chính nghĩa, ghét gian tà.

Đặt trong hoàn cảnh tối tăm nửa cuối thế kỷ XIX, vận mệnh đất nước nghiêng ngả, thực dân Pháp hung hãn với "tàu đồng, súng máy" và đằng sau họ là cả một nền tảng kỹ thuật, một lực lượng
kinh tế, trong lúc đó đại bộ phận vua quan nhà Nguyễn tự giam mình trong cuộc đời chật hẹp, cả một đất nước nhân dân chưa có mầm mống mới để khuấy động, làm nên sức mạnh triều dâng thác lũ, thì một số người như dạng Tôn Thất Thuyết đã dũng cảm đấu tranh, tập hợp quân tướng để đứng dậy chặn đng sự đầu hàng và n súng ngăn bước tiến xâm lăng của giặc là một nét đẹp đáng trân trọng. Ông và những ngưi đồng chí của mình đã tiến hành đấu tranh dưới sức ép ngàn cân của thực dân, giữa một triều đình mà từ vua, mẹ vua, hoàng thân quốc thích và phần lớn quan lại chủ hòa đang ngấm ngầm hoặc công khai thỏa hiệp, sẵn sàng thông đồng vi giặc để quật ngã những người yêu nước, thì Tôn Thất Thuyết, mặc dầu xuất thân trong hoàng tộc, bị câu thúc ngặt nghèo của giai cấp và thời đại, ông vẫn không phải là loại trung thần hủ lậu, thủ tiêu ý chí chiến đấu để phục vụ cho bọn hôn quân, ám chúa. Giá trị căn bản về tư tưởng và hành động của Tôn Thất Thuyết ni lên đim đó.

Song đi
u kiện xã hội và giai cấp đã hạn chế không ít đến sự phát trin những yếu tố tốt đẹp của Tôn Thất Thuyết. Ở ông, lòng yêu nước có mạnh, chí căm thù giặc có sâu, nhưng lòng yêu nước lại gắn với lòng trung quân của nhà nho, với ước vọng khôi phục lại cơ đồ nhà Nguyễn, trong lúc cuối thế kỷ XIX tư tưởng Nho Giáo với hệ ý thức phong kiến không cho phép đem lại một giải pháp thích đáng, có thể đưa dân tộc thoát khỏi nguy cơ mất nước. Triều Nguyễn hơn hai mươi năm chìm sâu trong tư tưởng chủ bại, nay dù có một bước chuyn biến khi Hàm Nghi bỏ kinh thành ra vùng sơn cước, ở nhà tranh vách đất để nằm sâu trong lòng nhân dân, song sinh lực của nó không còn đủ sức để lãnh đạo cuộc kháng chiến. Hệ ý thức chật hẹp đã hạn chế tm mắt, làm Tôn Thất Thuyết không thấy được tính chất thỏa hiệp, mà thực chất là đầu hàng chưa dong tay của Tự Đức. Sự trung thành của Tôn Thất Thuyết đối với Tự Đức thể hiện qua việc ông tự động đưa quân từ Sơn Tây về đàn áp phong trào Trần Tấn, Đặng Như Mai ở Nghệ Tĩnh, Thanh Hóa là một sai lầm lớn.

Trong cuộc chiến đấu chống Pháp, Tôn Thất Thuyết vẫn chưa nhận ra đầy đủ sức mạnh của nhân dân, của quần chúng yêu nước. Ông trấn
áp quyết liệt nhóm chủ hòa với giặc chỉ bng bạo lực quân sự, mà chưa lúc nào nghĩ đến bạo lực chính trị. Khi có ý đồ t chức chống Pháp lâu dài, Tôn Thất Thuyết cũng mới nghĩ đến xây dựng sơn phòng hơn là tập hp nhân n. Tiến công Pháp năm 1885 tại Huế, ông hoàn toàn dựa vào binh sĩ, nhân dân chưa được phát động để hợp sức làm nên màng lưới "thiên la địa võng" - Ông từng viết chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân, nhưng nhân dân dưới mắt ông vẫn là muôn dân trăm họ của triều Nguyễn. Chính hệ ý thức đó đã tạo ra ở ông một thái độ sống chưa thật đẹp. Tính nóng nảy, có thể phần nào hẹp hòi, thiếu tôn trng đối với nhân dân lao động của ông phải chăng đã góp một phần tạo ra những dư luận, truyền thuyết che mất những nét đẹp cơ bản của ông.

Đó là chưa kể sai lầm lớn của Tôn Thất Thuyết khi
ông dựa vào thế lực phong kiến Trung Quốc về sau, tin vào một lực lượng đang trên đường tan rã, t nó không thể cứu lấy mình, để đt nước bị đế quốc chia năm xẻ bảy nhưng "cái nết đánh chết không chừa", lại cứ âm mưu với thực dân Pháp chia phn thử lợi Việt Nam. Sai lầm này đã đưa ông vào thế "buồn vì việc nước, khóc ra huyết lệ", phẫn uất chỉ biết cầm dao chém đá trong suốt những năm cuối đời.

Tôn Thất Thuyết không thể giải quyết nổi mâu thuẫn, đồng thời cũng là tâm sự bi đát của một thủ lĩnh Cần Vương hết lòng thù giặc, nhưng cuối
cùng phải cảm thấy mình bất lực trước quân thù. Mâu thuẫn đó, tâm sự đó cũng là mâu thuẫn, tâm sự chung của khá đông lớp sĩ phu Cần Vương, Văn Thân yêu nước, chống Pháp thời bấy giờ.

T.T.C - N.X.H
(19/6-86)
                                                                          





------------------
1.
Đại Nam Thực Lục chính biên d tập 34, trang 370
2.
Trích lại thơ văn Nguyễn Quang Bích, Hà Nội, 1983, bn dịch của Kiều Hữu Hỷ, Lã Xuân Mai, Nguyễn Văn Bách.
3. Đào Trinh Nhất, Phan Đình Phùng. Sài Gòn, Tân Việt 1957.
4.
Thơ văn Nguyễn Quang Bích,d.







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.