Đọc thơ Nguyễn Trọng Tạo

09:14 13/05/2010
HOÀNG CẦM(cảm nhận qua tập thơ “Đồng dao cho người lớn” của Nguyễn Trọng Tạo)Hình như đã lâu lắm, hoặc như chưa bao giờ tôi bắt gặp trên đời này một người mà chỉ qua một buổi sơ ngộ tôi đã thấy quý và yêu... như anh ta.

Nhà thơ Hoàng Cầm với nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo - Ảnh: nhathonguyentrongtao.wordpress.com

Vì một lẽ cũng đơn giản thôi, trong cái xóm văn ồn ào tấp nập, chín người mười làng như Hội (và không hội) nhà văn của chúng mình đây, loại người như anh ta kể cũng hiếm ở một ngành nghề có vẻ khá phong phú, hơi hơi đa dạng mà cũng hơi hơi tạp phí lù này. Anh ta điên chăng?

có anh hề nói với tôi
đời thằng hề buồn lắm anh ơi
và tôi đã khóc
(Tin thì tin không tin thì thôi - ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN)

- Ừ, có lẽ hơi điên thật! Anh ta có lúc nào tỉnh không?
- Nhiều chứ, độ một vài phần trăm!
- Ồ, thế thì anh nào làm thơ hãycung điên quá chín mươi phần trăm à?
- Tôi cho là thế. Vì đông tây kim cổ, những bậc thi hào thi bá trước cuộc đời đều khiến người ta cứ phải nghĩ rằng các vị ấy giông giống như điên gần 100%.
- Anh ta say à?
- Ừ, say luôn
- Say liên miên hay sao?
- Có thể là như vậy
- Nghe nói anh ta buồn lắm chăng?
- Buồn nhiều đấy
- Thế không có tí vui nào à?
- Vui cũng nhiều chứ. Nhưng chỉ thỉnh thoảng. Vui đấy buồn ngay đấy
- Anh ta phải lo nghĩ ưu tư nhiều lắm ư?
-Tất yếu là thế. Không lo nghĩ ưu tư thì giết ai ra thơ?Mà cũng không hoàn toàn là như vậy
- Anh ta yêu nhiều đàn bà chứ?
- Ồ, cái đó đương nhiên rồi. Nhưng tưởng nhiều mà hóa ra ít
- Thế thì không đam mê hay sao?
- Chết chửa? Không đam mê sao lại thành thi sĩ. Nhưng cũng tùy cái đáng đam mê
- Hay thật! Vậy có đúng anh ta là Người Ham Chơi như có một ông đồ hơi hơi gàn là Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phân loại các đấng người không?
- Đúng một tẹo thôi, chứ phải nói cho đúng thật anh ta là người chơi (vì ham thì ai mà chả ham, nhưng ham có "được" chơi không? Đằng này, người chơi (homs ludus) là người được Thượng đế ban cho cái khả năng và cái phép chơi như anh ta ấy. Chơi là bẩm sinh của những thi sĩ đồng thời sống phải có bản lĩnh mới chơi được. Thiếu bản lĩnh mà học đòi chơi thì có khi té nhào, gãy cổ đấy)
- Ôi giào! Ông nói lan man vòng vèo sốt ruột quá. Thời buổi “hiện đại” này, ông cứ nói toạc ra, nói ngắn và nói thẳng ra đi: anh ta, cái anh Nguyễn Trọng Tạo ấy là loại người gì ở cõi nhân gian đã quá đông đúc, mà xô bồ lắm khi hỗn loạn, cái chỗ ở đã chẳng rộng rãi gì mà còn nay khủng bố mai đảo chính chém giết, luôn luôn đem võ khí với nhiều thứ lý thuyết rởm ra để dậm doạ nhau, che dấu tội ác, tranh dành và cố bám lấy cái quyền lực bẩn thỉu và ích kỷ của từng phe nhóm.
   chuột quá nhiều chuột chẳng chịu giảm biên
- Thưa các bạn, thực ra tôi cũng khó trả lời cho vừa ý mọi người. Vì thơ hay giống như một món ăn rất quý hiếm, nhưng mỗi người yêu thơ lại có sở thích riêng. Cùng một bài thơ, có người yêu lại có người ghét, lại có người thờ ơ. Tốt nhất xin các bạn cứ coi đây là ý kiến riêng của một người đọc bình thường.

Tôi chỉ biết gọi Nguyễn Trọng Tạo đúng là một thi sĩ, thi sĩ từ khi Thượng đế gieo mầm thơ cho một loại động vật siêu đẳng mà ta gọi là con Người (Người viết hoa, Người ở đẳng cấp cao nhất, vì Người cũng chia ra năm bảy đấng cơ đấy). Đọc thơ Nguyễn Trọng Tạo, lắm lúc tôi như nhìn thấy rõ cái uyển chuyển màu nhiệm trong tâm tư và trong thơ anh. Có khi nó vút lên rất cao đến mức không ai nhìn thấy anh ta đâu nữa:
            tung tăng thanh xuân trôi ngược chiều
            phút chốc mộng du lên phiêu diêu
Lại có lúc thơ chìm rất sâu khiến đôi ba bạn thân thiết nhất phát sợ, chẳng biết anh ta mất tăm vào cõi nào đây
            tôi trở lại dòng sông bờ cỏ thi xanh mướt
            xưa em đánh mất trâm giờ lặng lẽ tôi tìm
Nhiều phen anh đứng sững giữa cái nhân gian vừa giả dối vừa lố lăng vừa ngốc nghếch
            có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
            có con người sống mà như qua đời
(Xin phép mở dấu ngọăc. Riêng câu vừa rồi, anh ta có bị mềm lòng nên đã gượng dùng từ mềm mỏng có vẻ "lịch sự" là "qua đời", chứ tôi biết ý anh định nói khối người đang sống mà như chết rồi, nhưng hình như anh kém bạo dạn, như né tránh nể nang gì đó bèn làm một câu thơ đáng lẽ ra là phải thẳng thắn, lại làm nhẹ đi cho đỡ chối tai một số người đang còn sống đấy mà như đã chết).
Tuy vậy, ở nhiều chỗ, anh đã phải nói thẳng tuột, cũng chẳng cần che đậy gì nữa
            trộm cắp đâm nhau dưới đèn mờ
            xích lô máu me cấp cứu
            tham nhũng nâng ly mừng thắng lớn
            u ớ nói mê người đói không nhà
Còn nhớ về thời chinh chiến, anh ta cũng chẳng dấu diếm sự khủng khiếp của chiến tranh
            nười thủng tim, người thủng đầu
            nười cụt chân, người cụt tay
            nười bên ta người bên địch
 Đặc biệt bài thơ BÓNG thì đọc rồi, tôi cứ gai gai rờn rợn khắp người
            hn là hắn, hắn chính là chiếc bóng
            kông thanh âm, không màu sắc, không buồn vui
            thế mà hắn suốt đời sát kề tôi
            không xóa được, tôi đành chào thua hắn.
nhất là câu kết thật đáng đau buồn cho một cộng đồng người
            tôi đã chào thua khối người như chiếc bóng
Thế nghĩa là nhân loại này còn sinh ra rất nhiều rôbốt bằng xương bằng thịt y như con người. Nhưng anh Trọng Tạo lại rất thanh thản, như một nhà hiền triết đã thấu hiểu đến tận cùng cái sợi dây vô hình ràng buộc chặt chẽ thiên nhiên với số phận người, hơn nữa là số kiếp thi sĩ.
            mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
            mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió
 Được cái thanh thản trong như pha lê ấy là do Nguyễn Trọng Tạo luôn yêu cuộc sống, ham sống, và khát khao tình người vô hạn độ, anh luôn tiếc cho những ngày tháng trôi nhanh trên mọi kiếp người
            có thương có nhớ có khóc có cười
            có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi
Rất nhiều điều anh nói thật, có người tưởng anh mỉa mai hay chế riễu. Chính ra là anh chỉ nói thật. Thi sĩ chỉ đáng giá khi nói thật bằng những hình tượng chắt lọc từ sự thật (Boileau)
Ví dụ cái chuyện ăn uống thô thiển này
            tôi đã tới hang động yến sào đã thèm ăn yến
            vậy mà chưa được nếm bao giờ
            hàng quốc cấm

Nói đến một thi sĩ, trước hết phải xem cái tình của anh ta nó thường hiện lên bằng hình ảnh, bằng nhịp điệu, bằng ngôn từ, nghĩa là xem những nỗi niềm rung động của thi sĩ ấy từ da thịt bên ngoài vào tít bên trong đến những tế bào tận cùng của người thơ. Tình của chính mình trước đã, rồi đến bố mẹ, vợ con, người yêu, bạn hữu, người láng giềng, người đồng bào, đồng loại... nói chung với những ai được gọi là Người, kể từ người bé mọn bình thường nhất trên trái đất này. Thế thì ở Trọng Tạo, tôi lại thấy anh thật đắm đuối với cuộc sống con Người mà do đó cũng được nếm nhiều vị đắng cay, chua chát, gây thương tích cho mình và cho những người thân yêu của mình. Thôi thì "rầu lòng vậy, cầm lòng vậy". Nhưng cũng lại vì quá yêu rồi nên bất chợt thốt ra những lời khiến người đọc dễ cảm như tôi cũng phải đau lòng theo anh.
            cầm lòng sao cứ vân vi
            mây thì nặng trĩu, núi thì nhẹ tênh

Chỉ vì một lẽ, Trọng Tạo làm thơ như bó buộc từ đáy tâm linh. Bao nhiêu nỗi niềm buộc anh phải viết ra nếu không thì sức nén, sức dồn ép của nó sẽ khiến anh ngạt thở hoặc ứa máu khắp các lỗ khiếu: mắt, tai, mồm, mũi. Cũng vì sự chân thực ấy mà trong cả tập ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN, không một bài nào giả tạo vay mượn hoặc điệu bộ, làm duyên, làm dáng. Mỗi câu, mỗi bài đều có sức đi vào chiều sâu của ý thức và tâm thức, đôi khi bật ra từ vô thức, như một khám phá bất ngờ.
            sẽ dở hơi nếu là tôi đứng khóc
            nhưng cười vui thì tôi sẽ còn gì
            ....
            em lộng lẫy mộmg mơ giờ nhàu nát bên đường
            anh là kẻ chót vớt trăng bao lần trăng vỡ nát
Thơ anh lại có lúc như tiếng nói của định mệnh hoặc một thoáng rùng mình của số phận
            ôi sự sống như đỉnh trời chân cỏ
            thoáng heo may. Nghe mình chợt sang chiều

Và chỉ bốn câu sau đây mà sao tôi thấy hết cả một vũ trụ hoang lạnh, một nỗi cô đơn mênh mông buồn tưởng chừng cả thế giới này tan đi đâu hết:
            ... rồi xa lắc. Bỏ một trời nhung nhớ
            ơi mùa thu áo ấm đã mặc chung
            rồi biền biệt. Hoa vàng như hơi thở
            mimôza. Giọt nắng... Có theo cùng


Những xúc cảm tinh vi tế nhị đến thế, chỉ những thi sĩ biết nắm giữ lại được từng phút giây sâu thẳm nhất trong tâm tư mới diễn tả được trọn vẹn những điều mong manh khó biểu hiện nhất bằng bất cứ loại hình nghệ thuật nào.

Quả vậy thơ cứ như bốn câu ấy thôi là tình người đã hiện ra thành người thật, đứng ngồi ngay trước mặt ta, để ta có thể ôm vào lòng như ôm toàn thân người yêu mà nâng niu, trìu mến.
Rõ ràng thơ Trọng Tạo đi thẳng ngay vào cái đang thực có để rồi phiêu diêu, tan man trong hư vô, để lại cho tôi cái cảm giác của gió lạnh đầu mùa mơn man da thịt hòa vào một nỗi nhớ tiếc xót xa ảo diệu về một vài điều gì quá đẹp đã trôi qua, đã đi xa và xa xa mãi, không tài nào cầm lại được mà éo le thay, nó vẫn cứ đôi khi hiện hình rõ mồn một trước mắt mình.
Thơ Trọng Tạo không mấy khi đi một chiều. Mà phong cách quán xuyến toàn tập lại rất hấp dẫn, đáng yêu, không ai chỉ đọc một lần. Không hiểu sao, mỗi lần đọc lại ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN, tự nhiên tôi liên tưởng ngay đến dáng dấp một nhân vật của Nguyễn Du tạo ra cho cuộc đời này:
            ... một tiểu Kiều
            có chiều phong vận... có chiều thanh tân
            sương in mặt tuyết pha thân
            sen vàng lãng đãng
                                                (Nguyễn Du)

Ngôn từ và nhịp điệu thơ Trọng Tạo cứ tâng tâng, tưng tửng thường khi lênh tênh tưởng như nhẹ nhõm lắm, cũng có lúc hì hục tưởng như nặng nhọc lắm. Mà như chẳng định nói gì quan trọng lại hóa ra toàn những cái đau khổ, cái vui cái buồn nhân thế vào cuối một thế kỷ quá nhiều bi kịch, (tuy cũng lắm hí kịch), máu và nước mắt, ai oán thương tâm quá nhiều, yên vui quá ít, đi theo nhiều khát vọng ấm no, xum vầy, hạnh phúc. Chỉ một bài Mùa Thu áo ấm đủ cho tôi thấy nỗi lạnh lẽo thăm thẳm đến gai gai tê tê khắp người.

Với cái “tạng" yếu ớt, dễ xúc động như riêng tôi, thì tập thơ này của Nguyễn Trọng Tạo là một trong vài ba tập đứng hàng đầu trong một tâm tưởng thơ chân thực, gợi ra cái ĐẸP, ĐIỀU LÀNH và SỰ THẬT cứ coi như cho riêng mình thôi kể từ ngày non sông thu về một mối. Cũng là đã 25 năm mà qua tập thơ này, tôi thấy tâm tư tình cảm và khát vọng ước mơ của con người Việt Nam hiện lên rất rõ nét sau bấy nhiêu tang tóc, chia lìa, sau những thủy chung và phản bội, thành tâm và dối trá, yêu thương và thù hận. Số bài thơ xấp xỉ số triệu dân của đất nước này, cầm tay thì nhẹ nhõm tưởng như chỉ là một cơn gió cuối thu, mà thật ra nặng bằng trọng lượng nước của dòng sông quê anh Trọng Tạo. Cái sức nặng ngôn ngữ và âm thanh Đồng dao khiến tôi nhiều đêm trằn trọc, phải tung chăn ngồi dậy, tìm đúng bài Đ bài C bài M mà đọc lại để được an ủi, được sẻ chia những khía cạnh thương cảm và cô đơn, nỗi sầu riêng và lòng trắc ẩn. Tính từ 1975, ít có tập thơ nào xâm chiếm lòng tôi lâu và sâu như ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN. Đồng dao ư? Đúng vậy. Trọng Tạo như chú bé nhà quê đi kiếm củi, trơ vơ và lủi thủi trên cánh đồng chiều, vừa vác bó củi khá nặng về nhà vừa hát rất vô tư về những chuyện đời, những niềm riêng, nỗi chung của rất nhiều người Tạo phải gọi bằng anh chị hay cô dì chú bác thường ngày vẫn dạy em dạy cháu về những điều sơ đẳng của lẽ sống con người. Bởi vì cậu ta cứ nâng trên tay những âm thanh nhịp điệu kết thành những con chữ luôn luôn ngọ nguậy, chấp chới vỗ cánh chỉ dình bay lên, mà bay xa, khoan thai chững chạc, như chẳng có gì vội vã. Anh đã đi những bước chân vững chắc và đĩnh đạc của số mệnh lúc chậm lúc nhanh, lúc nhẹ nhàng, lúc nặng trĩu lướt trên số phận cuộc sống mỗi con người, tựu trung là những bước đi định sẵn rất ráo riết và quyết liệt. Riêng Trọng Tạo, anh chủ định đi theo nhịp bước nghìn năm của dân tộc, nhịp song hành là chính, nhịp chẵn, hai bốn, sáu tám, cả chín mười, rất nhiều câu thơ dẫu số chữ lẻ vẫn luôn theo nhịp chẵn như vợ chồng như âm dương như đôi chim liền cánh, hễ nghe kỹ từ phía bên trong hay phía ngoài của ngôn từ, nhất là ở những dấu lặng và khoảng cách giữa hai câu (entreligne), tôi vẫn thấy cái ung dung thư thái của nhịp chẵn, nhịp sáu tám. Tôi nghĩ hình như anh cố tránh sự trúc trắc, sự sai nhịp trong cùng một câu, cái gồ ghề và cái gấp gáp của cuộc sống túi bụi thị trường mà tôi thường gặp ở một số tác giả mới cứ tự cho mình là “hiện đại" lắm bất chấp một nguyên tắc lớn của thơ phương đông là nhạc điệu trong thơ. Nhạc điệu trong thơ chính là cái ta thường gọi là hồn thơ, không có nó, bài thơ chỉ còn là một đống xác chữ.

Có thể anh “phớt" hẳn cái nhịp cuống cuồng, sô bồ, nhốn nháo, lạo xạo của lối sống hôm nay, kiểu kinh tế thị trường chen lấn, bừa bãi, đua nhau làm giàu, nhiều nơi tích lũy tư bản dã man, bất chấp cả lương tâm. Đồng đô-la Mỹ đang muốn chỉ huy cái loại “nhịp điệu" phi dân tộc đó trên phạm vi toàn thế giới.

Tôi thấy Nguyễn Trọng Tạo lúc nào cũng như muốn đi đến đáy của nhiều tâm trạng và suy tư thời đại. Anh nói chắc nịch như thân cây lim cây táu về tình người, cả về những diễn biến tâm tư trong một xã hội lẽo đẽo theo sau những bước dài bước ngắn rất chớp nhoáng của thời đại mà kỹ thuật khoa học càng lên cao càng đi sát sạt ngay bên cạnh cái nguy cơ hủy diệt toàn cầu. Anh như ngậm đau mà nói ra bằng những con chữ khá sắc cạnh những nỗi thống khổ và lòng tin yêu trong cuộc sống hôm nay, tưởng như anh thây kệ mọi điều thị phi, bỏ ngoài tai những lời khen chê vô bổ. Một ví dụ của tính u trầm thảnh thơi, tính kiêu kỳ không lộ liễu mà rất có duyên của lòng tin yêu đích thực thi sĩ ấy:
            ... nghe nói từ xưa làm vua sướng lắm
            mà đôi khi tôi cũng sợ làm vua


hoặc:
            ... con sông mình hạc xương mai
            vàng son in bóng đền đài hoa khôi
            đến đây tôi gửi bóng tôi
            vớt lên thì vỡ, tan rồi lại nguyên
để rồi anh cứ phải nói đi nói lại mãi như thách thức, như hờn dỗi mà lại như một lời âu yếm rất vợ chồng, cái điệp khúc rất trẻ con, rất hiền triết, rất đáng yêu:
            tin thì tin không tin thì thôi
Và riêng tôi, thú thật, tôi cũng muốn mượn nguyên văn câu thơ trên của Trọng Tạo làm chủ ý cho bài viết sơ sài này. Tin thì tin không tin thì thôi!

MẤY LỜI NÓI THÊM NHÂN BÀI GIỚI THIỆU THƠ NGUYỄN TRỌNG TẠO
Quả thế, xưa nay thường có nhiều ý tứ sâu xa của thi sĩ mà cứ phải chờ hàng chục, hàng trăm năm sau khi thi sĩ về trời rồi, thiên hạ mới khám phá ra những góc cạnh quí báu của tấm lòng thi sĩ thường bị bóng tối ngu si của thời gian vùi lấp. Ít lâu nay, ta thường nghe hai cụm từ quen thuộc đến nhàm chán: TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI. Hình như Hồ Xuân Hương đã thành cổ lỗ huống chi còn Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tú Xương v.v...! Ai biết quý trọng vốn quý thì còn xếp các vị tiền bối ấy vào loại cổ điển còn những kẻ vong bản, vong ân thì vơ đũa cả nắm là “cũ kỹ, cũ mèm" tuốt! Tưởng cổ điển thì từ cấp 2, cấp 3 học xong rồi thì xếp vào ngăn tủ, tìm hiểu lại làm gì. Còn có những thái độ hỗn xược với người xưa nữa, có anh giở tờ Văn Nghệ thấy tên bài viết có ý nói về một vài câu nào đó trong truyện Kiều hoặc Chinh Phụ Ngâm thì quẳng ngay tờ báo xuống chiếu, nhại ngay câu bất hủ của cụ Cố Hồng (Vũ Trọng Phụng) mà rằng: “Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi!..." Ấy là chưa kể rất nhiều bài nghiên cứu thơ đăng báo, in ra thành sách rồi, mà còn trích sai, sai đến thảm hại, chứng tỏ người viết không hiểu gì văn học, nghệ thuật. Tình trạng này hầu như gần đây khá phổ biến khiến những độc giả chân chính nghĩ mà lo cho nền văn học dân tộc sao lại có nhiều người vô trách nhiệm quá. Nghiên cứu chỉ là sao chép lại của người khác để "cứu" cái túi tiền của mình đang có nguy cơ đói đô- la thành ra nghiên cứu văng- tê, phê bình văng- tê, trích dịch văng- tê, để rồi tiêu tiền của công quỹ cũng văng- tê.

Từ mười năm nay, tôi cứ ao ước và cũng có lần xin phép Hội Nhà Văn cho xuất bản một tờ báo thơ. Để ít ra thì cũng có nơi đãi cát lấy vàng. Kể thì nhiều báo lắm. Báo về thương mại, về tài chính cũng đăng thơ. Còn chính thức, RA MỘT TỜ BÁO THƠ thì không có mặt. Đó là điều cũng gọi là khá kỳ quặc trong khi dân tộc ta là một dân tộc yêu thơ. Đến cả người mới biết đọc biết viết cũng có thể làm ra một vài câu lục bát. Một tập thơ hay như ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN này phát hành đã sáu năm rồi mà cũng ít người nhắc đến, hoặc chỉ giới thiệu như một lời quảng cáo sơ sài. Có thể trong hàng mấy trăm tập thơ in ra mỗi năm, có nhiều bài hay, nhiều câu thơ hay mà rất ít người biết đến. Nếu có một tờ báo thơ, hẳn nhiều người làm thơ hoan nghênh vì đa số các bạn in thơ đều là những người nhiều cảm xúc mang nhiều suy tư trước thời đại đang biến chuyển vùn vụt, ai cũng mong giãi bày lòng mình muốn nói điều gì đó với thời đại. Tuy cũng có đôi ba anh “tập sự thơ" cố chạy được món tiền nhỏ in thơ ra để khoe mã, để “ra đều" ta cũng là “nhà thơ" cho sang trọng với phố với làng, thì vẫn là số rất ít, ta cũng nên chỉ gật đầu khích lệ thôi, vì điều đó chẳng hại ai. Nhưng gần 15 năm đổi mới mọi mặt của đất nước mà tôi cứ gào, cứ gọi, cứ ao ước mãi chẳng ai hồi âm, điều đó mới thật có hại cho nền văn học dân tộc của chúng ta. Tôi xin phép làm vui một chút viết mấy câu bằng lối chơi chữ (chẳng qua cũng chỉ là đôi lời than thở)
            Này báo thơ ơi, liệu có nhầm
            Ngủ đâu ngủ mãi chẳng tri âm
            Nàng Thơ tài sắc không ra thớ
            Dân tộc đầy thơ, thơ cứ câm

            Muốn hỏi vào Thơ không thở được
            Dẫu đăng nhan nhản cũng như thừa
            Hay vì nặng nợ đi làm thơ
            Huyền hoặc thờ ai? Ới hỡi Thơ

Anh Trọng Tạo và các bạn đã làm thơ, đã có thơ in sách, đăng báo ơi! Không có báo thơ, phải chăng vì đất nước chúng ta nhiều nghịch lý? Đầu làng hạn hán, cuối làng úng thủy. Trong nhiều ngành công tác, người ngay thẳng thường bị mất việc hoặc bị dìm dập, kẻ lươn lẹo giả trá, cái lưỡi quá mềm, càng lắt léo thì cột xương sống càng cong xuống lại lên xe xuống ngựa, nhà cao cửa rộng, đô- la ních chật tủ. Tài nguyên thì giời ban quá rộng, rừng vàng biển bạc đấy, vẫn nhiều nơi túng thiếu, chỉ no lưng lửng. Tài nguyên đã rồi rào mà tài năng càng không thiếu. Học sinh thông minh hiếu học, hàng năm tốt nghiệp các trường đại học phải kể hàng nghìn chàng trai cô gái ngoan cường nết na, sao dân tộc nói chung còn nghèo, hàng triệu thanh niên không việc làm ổn định? Do đó tệ nạn sinh ra, sinh theo nhiều tội ác. Tài năng thì nhiều, dân cần cù lao động tốt sao công nghiệp ì ạch mãi? Các cậu cử, cô tú cô nghè, ông tiến sĩ thật khối ra đấy mà nay đang làm gì? Chúng mình cứ thành thực thống kê đi, nghịch lý đến mức nào! Tôi nhớ có một vị lãnh đạo chính trị cao cấp của ta, có lần đã phải thốt ra bằng cách chơi chữ về một trong nhiều điều nghịch lý của đất nước:
            Thẳng thắn thật thà thường thua thiệt
            Lỗi lầm lươn lẹo lại lên lương
(ý muốn phê phán một số cán bộ lãnh đạo chính quyền và kinh tế sợ và ghét bỏ những người hay nói thẳng mà chỉ ưa những kẻ nịnh hót. Đó chính là điều nguy hại đến uy tín và sự lãnh đạo của Đảng). Cũng như nhiều bài thơ Nguyễn Trọng Tạo cũng mỗi dòng một nghịch lý trong tâm tư và ngoài xã hội:
            có câu trả lời biến thành câu hỏi
            có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới
            có cha có mẹ có trẻ mồ côi
            có ông trăng tròn nào phải mâm xôi
 Sống trong những nghịch lý ngoài đời và trong tâm tình, thơ anh vẫn tràn trề sinh lực, vẫn theo đúng luật trời luật người có lương tâm, thơ anh vẫn đầy nắng ấm:
            mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
            mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió
            ...
            nhưng tôi người cầm bút than ôi
            không thể không tin gì mà viết

Tôi được cái may là người bạn quên tuổi của anh từ ngày tôi trở lại Hội Nhà Văn 1988. Tuy trước đấy có biết qua loa về anh do bài hát Làng quan họ quê tôi khá xúc động. Quê tôi chính gốc là môt làng quan họ Bắc Ninh. Thấy anh gốc ở Nghệ An lại vì nghệ thuật mà nhận vơ Kinh Bắc làm quê mình, tôi rất vui thích. Các em ngày xưa hát đùa nhau: Nhận vơ là vợ (thằng) nhân
Dẫu Trọng Tạo có “nhận vơ" khi đặt tên cho một bài hát đẫm tình yêu quê hương Kinh Bắc của tôi, thì tôi càng thấy rõ tâm tư anh đúng thật là tâm tư người Kinh Bắc.

Tên anh là Nhân ư? Bình luận rộng ra một chút, xin phép các bạn, anh đúng là người quê tôi, chỉ bằng vào giai điệu và lời bài ca nổi tiếng, bài ca được dân vùng quê tôi đã hát say sưa và còn hát mãi. Là vì nghe quan họ, đọc dân ca, xem tranh dân gian, nghe truyện cổ tích Việt Nam, những cốt chuyện xuất xứ từ đất Kinh Bắc xa xưa ta đều thấy tố chất NHÂN - yêu thương con người, yêu thương xứ sở, một chữ NHÂN lồng lộng sáng, bao phủ cả bầu trời Kinh Bắc hàng bao nhiêu thế kỷ và lan tỏa ra các bầu trời của toàn cõi Việt Nam, một tố chất duy nhất làm nên các tác phẩm nghệ thuật của dân tộc. Từ cổ tích nhuốm màu huyền thoại như: Tấm Cám, Thạch Sanh, Trương Chi, Thánh Gióng, đến các nhân vật huyền thoại có thật trong lịch sử như Tiên Dung Công Chúa, Mỵ Nương, Mỵ Châu, Như Vương phi Ỷ Lan, Lý Chiêu Hoàng, Huyền Trân Công Chúa,, Ngọc Hân Công chúa. Sau đến các thi sĩ lớn Lý Nhân Tông, Lý Thường Kiệt, Trần Thái Tôn, Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Cao Bá Quát, Cao Bá Nhạ... toàn là người Kinh Bắc.

Tôi thấy Nguyễn Trọng Tạo rất xứng đáng đứng vào hàng ngũ những người thơ Kinh Bắc hôm nay. Tôi một đứa con trai Kinh Bắc đến 80 tuổi tự rót chén rượu mừng cho quê mình có thêm đứa con Nguyễn Trọng Tạo, sau rót chén thứ hai mừng anh Trọng Tạo kết nghĩa anh em với chúng tôi, những người được đất quê vun trồng, chăm bón cho thành được một thi sĩ của quê hương nhà Lý khoan hòa nhân ái suốt hai thế kỷ, mà hương ngát của lòng bác ái, đức nhà Phật còn tỏa dài sắp tới kỷ niệm 1. 000 năm Lý Công Uẩn lên ngôi rồi rời đô ra Thăng Long, đem lại gốc nhân, cây nghĩa bền chặt và lung linh sáng đẹp đến muôn đời sau.
Để kết thúc đoạn viết hơi xa đề cũng là kết thúc cả hai phần của bài viết về thơ Nguyễn Trọng Tạo này, tôi lại xin phép tác giả, xin phép các bạn “nhại" câu thơ trên kia
            Thi sĩ đã tin thì không ai không tin
Tháng 7 năm 2.000
H.C
(139/09-2000)


Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.

  • LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.

  • LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

  • HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.

  • LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H

  • NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.

  • Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.

  • TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.

  • PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)

  • NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.

  • LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.

  • THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…

  • VŨ DUY THÔNG        (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.

  • TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.

  • NGUYỄN THANH TÚ          (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)

  • LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.

  • FAN ANHCon người khác con vật không chỉ ở đặc điểm con người có một bản ngã, một cái tôi luôn biến động, mấu chốt nằm ở chỗ, con người có thể có nhiều bản ngã khác nhau, tồn tại một cách âm thầm trong những thế giới mà nhiều khi ngay bản thân mỗi cá nhân chúng ta cũng không thể am tường hết.

  • VĂN CẦM HẢI(Nhân đọc “Giọng nói mơ hồ” - Nguyễn Hữu Hồng Minh. Nxb trẻ 1999)

  • ĐỖ NGỌC YÊNHồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử có thật. Hơn nữa ông đã từng làm đến chức quan Thái sư dưới thời nhà Trần khoảng từ năm 1370 - 1400, và lập nên nhà Hồ từ năm 1400 - 1407.

  • Phỏng vấn nhà nghiên cứu Nguyễn Việt - chuyên viên Hiệp hội CLB UNESCO Việt Nam – nhân cuộc triển lãm thư pháp thơ “Nhật ký trong tù” của Bác Hồ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế 8-2000