THÁI KIM LAN
Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
Tập thơ của một o người Huế - mà là một o Đồng Khánh thuộc thế hệ sau nữa chơ, thế là không thoát khỏi những cliches (khuôn sáo) lờn vờn trong mắt, đại loại như những thứ bích chương bề ngoài, - những thứ giết chết thơ lúc nào không hay - đã thường được gán cho như những thương hiệu: Đồng Khánh yêu kiều, mơ mộng, tím Huế, đẹp e ấp, cười nghiêng nón, ít nhiều với dáng dấp “ai bảo em là giai nhân/cho mộng tràn đêm xuân/ai bảo em ngồi bên cửa sổ…”. Nếu tình thì phải là hai sắc hoa ti gôn, nếu là hoa thì phải là hoa hồng rớm lệ… Chí ít nếu là Huế thì phải là Huế Mưa…
Nhưng hình như tôi đã sửa lại tất cả những định kiến ấy khi đọc những bài thơ đầu tiên, và dần dà đã trút bỏ hết mọi định kiến trong khi đọc tiếp, ngay cả hoài nghi ban đầu về màu đỏ của một loài hoa ấy, hoài nghi hay tình nghi một thứ hoa của chiến thắng, của lao động vinh quang có mặt trong thơ… cũng biến mất.
Thơ Phan Lệ Dung đã giải thể những điều miễn cưỡng của một người khi dấn thân vào một tập thơ xa lạ. Và cuộc gặp gỡ ban đầu trở nên một ngạc nhiên thích thú. Ở đây Huế… không mưa mà nắng, ô hay nắng Huế của tôi đang Ru nồng nàn tình thơ:
cái nắng, cái nắng đa tình mênh mang đi khắp
sao không về thắp lửa bên em…
cái nắng, cái nắng đa tình mênh mang đi khắp
sao không về qua cửa nhà em…
cái nắng, cái nắng đa tình mênh mang đi khắp
nắng hời, nắng ơi
thôi thì bỏ thói giang hồ
về đây gánh nước trồng trầu cùng em
mùa đông chở nắng qua sông
…
con le le ngậm ngùi gọi bạn
đi đâu mà vội
sao không đợi chiều âu yếm cùng em
nắng hời nắng ơi!
Ai người Huế chắc cũng cảm biết nắng Huế độ nào, hình như nắng làm ta cụt hứng hơn là mưa, nhưng nắng cũng có thể gây mê đến mộng mị hân hoan hay sầu muộn giữa ban ngày, thơ của Phan Lệ Dung ru cơn mộng mị ấy, tạo cả một chiều kích không gian và thời gian bằng màu nắng ở rất nhiều gam màu và âm thanh khá tinh tế cho vần điệu thi ca. Người đọc bước vào trong vùng nắng lóa ấy, và ngỡ cũng là ký ức của mình, mình gặp mình, nhưng ký ức vẫn là riêng, hóa ra ta gặp người. Có lẽ thi ca là nghệ thuật liên tưởng ra ngoài mọi định luật như một giây tơ khởi lên cho nhiều giai điệu âm thanh khác nhau. “Cái nắng” trong Ký ức hoa cẩm chướng đỏ là giây tơ ấy trong hầu hết tập thơ. Như đã nói trên không gian thơ của Ký ức hoa cẩm chướng đỏ là nắng, như bầu trời Huế, mà nắng cũng là chiều kích thời gian trong ký ức, trong cảm nhận nỗi phôi pha, vô thường của tình yêu. Từ chiều kích không và thời gian, nắng hiện hình thành bóng dáng của tình yêu, của người yêu, của cuộc tình bỗng đi xa, nắng và hoa thay người “muốn nói điều không nói được”.
và một chiều nắng muộn
anh đi
gió mang cánh hoa màu đỏ bay về
phía cuối trời
nắng buổi chiều
nhòa nước mắt tôi
Chất thơ “nắng” trong Ký ức hoa cẩm chướng đỏ có lẽ nằm ở cực điểm mâu thuẫn mà nắng đem lại trong cảnh huống của đời người, nắng bỗng trở nên một thứ siêu hình, một thứ ánh sáng từ trong quá khứ làm cho con người rơi vào… cô đơn, và ý thức vô cùng nỗi lạnh buốt trong thân xác hiện hữu
bây giờ
mùa hạ đang hừng hực thả lửa trên những mái nhà
sao tôi thấy lòng mình lạnh buốt (một ngày ảm đạm)
…tôi đứng một mình
còn nắng
ngẩn ngơ ngoài phố
anh đi…
ở nơi kia anh có biết xuân về
nắng vẫn vàng như thuở xa xưa
…có thể
xuân này không có những cơn mưa
nhưng sao
cây lá trong vườn xao động
còn tôi
lặng… chờ
Chất tố thơ trong thơ của Phan Lệ Dung thường nằm trong trời đất hồn nhiên, đi vào thơ bằng ngõ rung cảm của người nhạy cảm thân phận cô đơn, Phan Lệ Dung “lặng… chờ tiếng thơ đến, tình yêu đến để làm thơ…”.
anh đi rồi
em đứng thẫn thờ
chiều rụng đầy vạt cỏ
Và tôi nghĩ Phan Lệ Dung đã bước vào cõi thơ một cách nhẹ nhàng hồn nhiên bằng ngôn ngữ mang nhiều hình ảnh đời thường nhưng đầy hình tượng thơ ca.
T.K.L
(SH322/12-15)
Ký ức về những tháng ngày mải miết hành quân trên đất Campuchia, những phút giây nén lòng nhớ về quê hương, gia đình… vẫn chưa bao giờ nhạt phai trong tâm thức những người cựu chiến binh Đoàn 367 đặc công-biệt động trong kháng chiến chống Mỹ năm xưa.
LÊ VIỄN PHƯƠNG
(Nhân đọc Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình & hiện tượng của Nguyễn Đăng Điệp, Nxb. Văn học, 2014)
Cuốn Minh triết Việt trong văn minh Đông phương của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhằm mục đích góp phần làm sáng tỏ cội nguồn văn hiến của dân tộc Việt qua sự phân tích những di sản văn hóa truyền thống bằng các phương pháp mang tính khoa học.
17 chân dung các nhà học thuật Việt Nam thế kỷ 19 và 20 qua các tiểu luận nghiên cứu ẩn dưới dạng thức tùy bút của Đỗ Lai Thúy đủ sức vẫy vào nhận thức người đọc hôm nay những vỡ lẽ mới.
Giáo sư hy vọng độc giả cũng cảm thấy như mình khi đọc "Lòng người mênh mang" bởi các trang viết chứa đựng những sự thật không thể chối cãi.
Tác giả Phạm Xuân Hiếu sử dụng vốn sống, kiến thức về văn hóa, cổ vật khi viết những truyện ngắn trong sách "Cây đèn gia bảo".
LÊ HUỲNH LÂM
Có một bạn trẻ hỏi rằng: làm thế nào để viết thật hay? Tôi nói như phản xạ, trước hết tác giả phải có đời sống văn chương.
NGỌC THANH
Có một nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng đầy nhân cách đi ra từ Huế song rất ít người ở Huế biết tới, đó là Trần Hoài Quang - nguyên Trung đoàn phó và chính trị viên Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật (E95), nguyên Phó ban Tuyên huấn Thừa Thiên, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang và Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên… Ông hiện có một người con trai đang ở Huế.
“Như vậy đó, hiện đại và hoang sơ, bí ẩn và cởi mở, giàu có và khó nghèo chen lẫn, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện lên trước mắt ta, ngồn ngộn sức sống”. Nhà báo, nhà văn Phan Quang đã thốt lên như vậy cách đây gần 40 năm, khi ông lần đầu đặt chân đến vùng đồng bằng châu thổ. Những điều ông viết về ĐBSCL ngày ấy - bây giờ còn tươi mới tính thời sự, lan tỏa và trường tồn với thời gian.
ĐẶNG HUY GIANG
Thói quen, nói cho cùng, là sản phẩm của quá khứ, là những gì lặp đi lặp lại, không dễ từ bỏ.
Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi...
BÍCH THU
(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)
Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.
Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.
Phát hành tập thơ "Khi chúng ta già" sau scandal với Phạm Hồng Phước, tác giả Nguyễn Thị Việt Hà khẳng định thơ mình không cần ăn theo sự kiện gì.
Tác giả Tử Đinh Hương thực hiện bộ sách "Biểu tượng" với mong muốn khám phá, lưu giữ và khuyến khích trẻ nhỏ quan tâm hơn đến thế giới xung quanh.
Sách được các sư cô Thiền viện Viên Chiếu lược dịch, biên soạn từ nhiều nguồn tư liệu, chủ yếu là tư liệu chữ Hán, tiếng Anh, giúp người đọc hiểu thêm con đường tu tập của pháp sư Huyền Trang.
Soạn tâm thế an nhiên khi bước vào tuổi già, nhẹ nhàng đón đợi niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống... là điều mà trang viết của vị bác sĩ mê văn thơ đem đến cho độc giả.
Phó giáo sư Đỗ Lai Thúy thông qua cuốn sách "Vẫy vào vô tận" đã giới thiệu 17 chân dung các nhà văn hóa, nhà nghiên cứu có đóng góp cho con đường học thuật và tư tưởng của đất nước.
BỬU NAM
Nguyễn Quang Lập - Trần Thùy Mai - Ngô Minh - Phạm Tấn Hầu - Nguyễn Quang Vinh - Hoàng Thị Duyên(*)
NGUYỄN DUY TỪ
Kỷ niệm 120 năm ngày sinh (1894), 60 năm ngày mất (1954) của nhà văn Ngô Tất Tố