Sẽ thật vô duyên nếu viết dài dòng về một cuốn sách kiệm chữ từ tiêu đề trở đi, như trường hợp "Thấy" của Lê Thiết Cương. Nhưng một khi đã “thấy” ở sách nhiều điều cần thấy mà không cất lời thì e rằng kìm nín là một lựa chọn hời hợt.
Trong “Thấy”, kèm theo mỗi bài viết là những hình ảnh do tác giả hoặc các nghệ sĩ nhiếp ảnh khác chụp. Ảnh trên có tiêu đề “Tắc ý thức” do tác giả chụp, minh hoạ cho bài viết cùng tên.
Thấy1 tiết lộ một Lê Thiết Cương đa sự chứ không chỉ chuyên biệt trong lĩnh vực hội họa mà anh am hiểu. Chính xác hơn, anh tìm những góc “thấy”, lựa chọn những khả năng “thấy” theo cảm quan, cái nhìn của một họa sĩ. Vì thế, các sự việc, sự vật, tình huống một khi được anh “thấy” thì cũng nảy nở nhiều phát hiện bất ngờ, nhiều lí giải độc đáo, tinh tế.
Trước tiên và gây thú vị hơn cả là cái cách anh dừng lại để “thấy” những điều rất thường nhật, khuất lấp mà đời sống hiện đại dễ chóng vánh lướt qua. Một bức ảnh chụp bát nhang làm bằng vỏ lon bia Heineken (ở Bát Tràng) khiến anh thấy “thế là đủ hi vọng, hi vọng vào những điều tốt đẹp”; một bức ảnh chụp cái kẻng bom (của Nguyễn Hữu Bảo) làm anh nhận ra – điều này thật chí lí, rằng “Người Việt hay vì người Việt biết cười và luôn cười”; một bức ảnh “Sân chơi ở cổng viện” (của tác giả Xuân Thủy) khiến anh đặt vấn đề về “bệnh thích to, thích xây chùa to, làm tượng to đang ngày càng nặng, thành một loại dịch suốt từ Bắc đến Nam”… Anh thấy nét duyên Hà Nội là ở vỉa hè “luôn được design bằng những chuyện đời”; anh bắt gặp nhiều ngôi cổ tự “đang ngày càng mục nát” mà việc trùng tu sai cách đã làm chúng “biến dạng hoàn toàn”; anh không khỏi “xót và nhớ cái chợ trong phố cổ” bị phá vì trong mấy cái chợ ấy “không chỉ là dưa cà mắm muối, nó còn có cả văn hóa, cả truyền thống, cả tập tục, thói quen”…
Thật ra, có thể nhiều người cũng đã “thấy” như Lê Thiết Cương, đã “đau đớn lòng” và lên tiếng. Nhưng tôi tin tác giả có một chủ đích lựa chọn và điểm tựa để phát ngôn ngay từ đầu, điều mà rất nhiều “anh hùng bàn phím” hoàn toàn mù mờ, để tiến đến một vấn đề quen thuộc mà hệ trọng với tất thảy chúng ta: văn hóa. Đọc Lê Thiết Cương, tôi nghĩ, văn hóa là cách sống. Sống là trạng thái mà bất kì ai cũng có nhưng sống có văn hóa thì phần lớn nhân quần đều bỏ lỡ hoặc chưa bao giờ ý thức được. Thế nào là sống có văn hóa? Lê Thiết Cương cũng không đưa lí luận cao siêu, những rao giảng kiểu giáo khoa thư, mà chỉ dẫn những điều rất nhỏ, giản đơn: từ chuyện ăn chuyện nói, chuyện treo tranh, đến việc tìm kiếm và kiến tạo một ngôi “nhà an” chứ không phải chú mục vào “nhà đẹp, nhà sang”; và cả việc rất vừa tầm mà chẳng mấy ai thực hành chu đáo là “dừng lại để dọn mình, dọn dẹp lòng mình”… Không ngạc nhiên khi anh luôn tỏ thái độ cảnh tỉnh hiện tượng giàu xổi mà thiếu văn hóa, những sự việc mang nhãn văn hóa nhưng thực chất là để trục lợi, kiếm tiền. Một xã hội bát nháo kim tiền như chúng ta đang thuộc về, dù được bồi thêm nhiều lớp sơn ngôn từ diêm dúa, vẫn khiến những tâm trí nhạy cảm nhất lo lắng, bất an và khi không còn cách nào để đối diện, đành phải quay về hoài niệm quá khứ. Lê Thiết Cương hay viện dẫn thời chiến tranh/bao cấp để so sánh với những biến đổi của đời sống hôm nay. Anh cũng hay nhắc đến không gian làng, cái bào thai từ xa xưa của mỗi người dân Việt. Nhưng chừng đó chưa thể át được nỗi âu lo về một thực tại đang vênh lệch trong các mục tiêu, phương thức sống. Quá chú trọng kinh tế, nhà cao cửa rộng, xe cộ…, như tác giả nhìn nhận, không phải là cách đi tới tương lai an lành, văn hóa.
Đề cao văn hóa, thậm chí nâng văn hóa thành giá trị cốt lõi của toàn bộ đời sống, Lê Thiết Cương kịp lưu lại trong cuốn sách mỏng này khá nhiều triết lí, vừa sâu sắc của kẻ có chữ vừa chất phác, hồn nhiên của người duy mĩ. Anh tin tưởng một xã hội “trọng văn hóa, biết nuôi dưỡng một mặt bằng văn hóa cao, vun đắp một đời sống tinh thần vương giả thì đó là tốt lành, an lành, là đại cát”. Anh chờ đợi một “tầng lớp trung lưu về văn hóa” và giới doanh nhân phải “coi cái được về văn hóa trong kinh doanh của họ cũng là lợi nhuận”. Ở mức độ cao nhất, anh cho rằng “văn hóa chính là Phúc của một quốc gia” nên dĩ nhiên “mất văn hóa là mất nước”. Những lời lẽ tự thâm tâm như thế gây được thiện cảm vì dường như nó được chắt ra một phần từ quan sát, trải nghiệm của tác giả. Tôi cũng đã nhẵn mặt với thực tế thời thế tạo đại ngôn nhưng không hiểu sao, đọc câu chữ của Lê Thiết Cương, tôi vẫn dễ bị cuốn lây vào cái tình chân thực, khi thảng thốt khi bình tâm của anh, và chẳng còn muốn xét nét chỗ nào tác giả tỏ ra cảnh vẻ, đứng trên cao nhìn xuống. Độ khó nhưng là điều anh đã làm thật thanh thoát ở cuốn sách này chính là đã “đi qua lòng mình” trước khi muốn đến được “lòng người”.
Quả thật, tôi đọc cuốn sách còn vì lí do cá nhân: tôi muốn nghe tiếng nói từ bên trong Hà Nội về chính cái vùng đất vẫn tự coi là văn hiến, thanh lịch như thế nào. Không ủng hộ “Hà Nội trung tâm luận” nhưng tôi vẫn chờ đợi những gì thật riêng khác đến từ cái viết của người kinh kì, đặng biết sâu hơn về tâm thái Hà thành dưới bao lớp bể dâu biến động. Thấy của Lê Thiết Cương, sau mạch dài của những Doãn Kế Thiện, Hoàng Đạo Thúy, Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà, Lê Minh Hà, Nguyễn Trương Quý, góp thêm cho tôi một dữ liệu nhỏ để chắc mẩm tổng thể chung: ở họ, dù đời tư và thời đại thế nào, dù với giọng điệu gì, cũng đều bảng lảng chất nostalgia [hoài thương] hằn nếp dưới từng góc nhìn. Bởi thứ nostalgia đôi khi khó xác thực đó, người đọc thường phải giữ hơi ở lồng ngực, tránh việc chẳng may bật ra tiếng thở dài, ý chừng cộng cảm hoặc cũng có thể là mệt mỏi. Với Thấy, tôi còn nghe loáng thoáng tinh thần Trang tử. Mà nếu thế, ta đành cười vui với mọi hiện hữu, hiện hữu đã là bình dị, tự nhiên, và cả phù du, phù phiếm nữa.
Theo Mai Anh Tuấn - Tia Sáng
-----------
1 Lê Thiết Cương (2017), Thấy, NXB Trẻ.
Sống ở nhiều nơi, trải nghiệm nhiều nền văn hóa, các trang viết của nhà văn Pháp gốc Việt Thuận không chỉ dừng lại ở vấn đề quê hương hay hiện thực nơi đang sống.
Ở sách mới, Phan Triều Hải nhớ về thành phố gắn chặt với ký ức tuổi thơ, còn Du Tử Lê hoài niệm những thanh âm của phòng trà xưa.
Những quê hương trên trái đất này đều là nhỏ bé như những dấu chấm trên bản đồ, nhưng trong tim mỗi người, chúng mãi thôi thúc họ tìm về những kỷ niệm ấu thơ, về gia đình, về tình yêu đầu đời. Đó là những câu chuyện được chia sẻ tại buổi giao lưu giới thiệu sách “Những quê hương bé nhỏ: Congo, Burundi, Thuỵ Sĩ và Việt Nam” tối ngày 18/7, tại Hà Nội.
Từng bùng phát mạnh mẽ vào khoảng cuối năm 2015 đến 2016, năm 2017 bắt đầu suy thoái, nhưng bất ngờ, vào những ngày giữa năm 2018, hai đề tài du ký và lịch sử bất chợt trở lại thị trường sách trong nước.
Chưa bao giờ văn học trẻ lại vươn mình mạnh mẽ, trong đó phần nhiều là những cây bút trẻ với những cuốn sách tản mạn, tùy bút, tản văn, truyện ngắn. Nhiều tác giả trẻ rất có ý thức xây dựng hình ảnh cá nhân, duy trì sức nóng tên tuổi của mình và những cuốn sách.
Năm nay, thi sĩ Phan Vũ đã bước qua tuổi 92, và là nhân vật cao niên nhất trong làng thơ còn tại thế. Thi sĩ Phan Vũ tài hoa và đào hoa, nên sự thăng trầm của cuộc đời ông gần như không tránh khỏi.
Đọc sách của Bùi Nguyễn Trường Kiên, bạn đọc thấy rất nhiều bi kịch cuộc đời, các nhân vật chính hoặc là trẻ mồ côi, hoặc là những đứa bé bị bỏ rơi, thậm chí ngay cả các nhân vật phụ hoàn cảnh cũng không khá hơn.
Nhân dịp ngày Gia đình Việt Nam 28/6, cuốn sách Cùng con đi qua tuổi teen của hai tác giả Chu Hồng Vân và Vũ Thu Hà được ra mắt. Cuốn sách Cùng con đi qua tuổi teen tập hợp những câu chuyện chân thực, những tình huống sinh động mà cha mẹ nào hẳn cũng từng thấy mình phải đối mặt.
"Trở về từ cõi sáng", "Mật mã sự sống", "Trải nghiệm cận tử" góp phần để độc giả khám phá ý nghĩa cuộc sống.
Trong những năm trở lại đây, tự truyện – một trào lưu không mới nhưng vẫn bùng lên như một “cơn lốc” và được nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng ưa chuộng. Cùng với những thông điệp khác nhau mà mỗi cuốn tự truyện đem lại cho bản thân người viết và các độc giả, không ít cuốn lại như “con dao hai lưỡi” kéo theo những scandal ồn ào to nhỏ, khiến những người được nhắc tên trong sách tổn thương, khiến độc giả thất vọng, bị “sốc”...
Lễ trao Giải thưởng Văn học sông Mekong lần thứ 9 được Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức trang trọng ngày 15/6, tại Hà Nội.
Tác giả Lê Bá Thự tái hiện cuộc sống quê ông ở thế kỷ trước với cảnh bắt tôm, bắt cá, làm ruộng, chăn trâu...
Trong lịch sử dân tộc Việt, bên cạnh các bậc anh hùng, tráng sĩ, không thể không nhớ đến Nữ đô đốc Bùi Thị Xuân, Học sĩ Nguyễn Thị Lộ...
Tiểu thuyết tâm lý xã hội đầu tiên của văn đàn Việt Nam thế kỷ 20 từng một thời gây tranh cãi về giá trị thuần phong mỹ tục.
"Thần thoại Hy Lạp", "Một nhận thức về văn hóa Việt Nam" là hai trong ba tác phẩm sẽ ra mắt độc giả vào cuối tháng 5.
Người xưa có câu rất thấu lý: “Khôn văn điếu, dại văn bia”, tôi nhớ đại khái, không hiểu có sai chữ nào không.
12 truyện ngắn được viết từ Torino (Italy), trong niềm hoài cảm về Sài Gòn - nơi tác giả sinh ra và lớn lên.
Vào mùa hè năm nay, Nhà xuất bản Phụ nữ xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả bộ tiểu thuyết “Thiên nhạc” của nữ tác giả Trường An - một áng văn độc đáo thấm đẫm tinh thần Phật giáo của nước nhà.
Thời gian qua, nhiều nhà văn đã mạnh dạn “hoài cổ” với những truyện, tiểu thuyết lịch sử - đề tài thường không dễ, bởi nhìn người xưa, việc xưa qua lăng kính ngày nay, nếu không khéo sẽ có những ý kiến trái chiều.
Ngày 24/4, tại Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp với Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Nam Định tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Nguyễn Bính (1918-2018).