Đọc lại tiểu thuyết “Người người lớp lớp”

09:39 13/10/2009
TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

(Ảnh: tuoitre.com.vn)

Những năm đó, với tư cách người làm báo viết văn trong quân đội, theo chân nhiều đơn vị bộ đội xuống tận cơ sở hoặc cập nhật những thông tin từ các phóng viên bay về tòa soạn, Trần Dần đã tích lũy được cho mình một vốn sống và mối tình cảm kháng chiến đối với những người đồng đội. Mùa xuân năm 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu ông là một trong số các nhà văn trực tiếp tham gia chiến dịch. Ba tập sách, hơn ba trăm trang được khởi viết từ tháng 2-1954 tại Điện Biên và viết xong tháng 7-1954 tại Việt Bắc, quyển I được in ngay trong năm 1954 và hai quyển sau được in vào năm 1955 đều do Nhà xuất bản Văn nghệ ấn hành. Người người lớp lớp là tác phẩm đầu tiên tạo dựng lại một cách đầy đủ, kịp thời nhất về cuộc chiến tranh nhân dân và chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử.

Lúc này là vào cuối năm 1953. Cuộc kháng chiến của chúng ta bước vào mùa chiến dịch. Trung đoàn 23 thuộc một đại đoàn có nhiệm vụ phòng thủ khu tự do, thấy các đại đoàn khác đều đã lên đường và khắp nơi dội về tin báo chiến thắng, đang nóng lòng thì được lệnh xuất phát. Họ hăm hở lên đường vào một đêm cuối tuần trăng, nhằm hướng Tây. Lúc bấy giờ họ không hay biết rằng đơn vị mình đang tham gia một chiến dịch rất quan trọng mà rồi đây sẽ đi vào lịch sử như một huyền thoại: Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Mở đầu tác phẩm, Trần Dần đưa người đọc vào không khí của một cuộc hành quân thần tốc “đoàn quân hàng vạn người đêm đi ngày nghỉ, khí thế đùng đùng. Họ mong từng phút từng giờ tới nơi súng nổ ”. Trên con đường ra trận đó, những người nông dân mặc áo lính đã vượt qua biết bao khó khăn gian khổ. Đó là sự vất vả tột cùng vì sự thiếu thốn các phương tiện cần thiết cho việc vận chuyển khí tài trên những con đường mới mở với những con sông rộng, với những đèo cao dốc thẳm. Đó là cảnh những người lính chỉ với hai bàn tay mà phải chuyển qua những đoạn đường dốc rất dài hàng chục cỗ pháo mà pháo vừa chuyển vào trận địa thì lại phải chuyển ra. Đó là cảnh ăn ngủ màn trời chiếu đất vào mùa mưa rét giữa mưa bom bão đạn... Từng chương, từng phần, tác giả đã cho chúng ta đến với biết bao khó khăn mà người chiến sĩ phải trải qua, phải chịu đựng. Rồi khi chiến dịch nổ ra, với tư cách là đại đội chủ công của trung đoàn, các chiến sĩ đã phải đương đầu với những sự hy sinh gian khổ khác. Tuy nhiên, trước tất cả những gian khổ hy sinh đó, tinh thần của những người lính ra trận vẫn toát lên sự lạc quan tin tưởng. Cho trung đoàn thực hiện ba nhiệm vụ chính: hành quân lên Tây Bắc, kéo pháo vào trận địa tham gia đánh vào đồi Him Lam, đào hầm hào và bắt giải tù binh, Trần Dần đã dựng lại trước mắt chúng ta bức tranh toàn cảnh về những người lính chiến và sức mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân cùng chủ nghĩa anh hùng cách mạng tập thể của quân dân ta trong chiến dịch Điện Biên.

Là một người lính, Trần Dần đã xây dựng nên chân dung người lính của một thời kỳ lịch sử đặc biệt của dân tộc, đó là thời kỳ mà với một vũ khí tinh thần mạnh mẽ là gần như tất cả những người lính ra trận đều mang nặng trên vai mình mối thù nhà nợ nước với bọn địa chủ, thực dân và họ hiểu rằng chỉ có cách mạng mới có thể giúp họ trả mối thù truyền kiếp và đưa lại cho mỗi người cuộc sống ấm no. Đó là lý do để những người lính của Trần Dần luôn nỗ lực. Tham gia vào cuộc hành quân ra mặt trận và những chiến đấu có đủ các loại binh chủng: bộ binh, pháo binh, hậu cần, văn công, với nhiều thế hệ, nhiều cấp bậc từ nhiều miền quê khác nhau. Ở đây ta gặp những tính cách khác nhau: là Quác nóng nảy như Trương Phi nhưng là người biết ân hận với việc mình làm sai; là No chỉ lo làm việc, làm hùng hục bất kể hiểm nguy; là Sửu chín chắn, điềm tĩnh và rất thương yêu đồng đội; là cô ca sĩ Hà sẵn sàng phục vụ bộ đội bất cứ lúc nào và đã hy sinh trong một hoàn cảnh rất tội nghiệp; là y tá Mưa, cô lái đò sông Đà đằm thắm dịu dàng nhưng trong công việc lại dũng cảm gan góc; là Vàng đã phải trả giá vì sự đớn hèn và phản bội. Cũng ở đây ta gặp chính ủy Trần Thắc. Qua câu chuyện về bản thân và gia đình, qua thái độ của ông với chiến sỹ và những suy nghĩ của ông đối với quân đội, đất nước, Trần Dần muốn xây dựng nên một hình ảnh đẹp về người cán bộ quân đội thương vợ yêu con nhưng biết gác nén nỗi đau của mình vì sợ ảnh hưởng đến tư tưởng chiến sĩ. Chính ủy Trần là một tính cách vừa mạnh mẽ vừa gần gũi, vừa lãng mạn vừa chân thực. Tác phong sinh hoạt và tình cảm chân thành của ông là một chỗ dựa tinh thần cho chiến sỹ. Cùng với Sửu, No, Sâm..., chính ủy Trần là một biểu tượng đẹp về người chiến sỹ quân đội nhân dân Việt Nam. Hình ảnh đại tướng - dầu xuất hiện rất ít nhưng qua ngòi bút mộc mạc của Trần Dần cũng đã hiện lên trong tình cảm của chiến sỹ là một vị thủ lĩnh tinh thần của quân đội.

Vẻ đẹp của người chiến sỹ còn được Trần Dần thể hiện thông qua mối quan hệ nhân dân. Tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược, thực dân Pháp đã đặt nhân dân ta trong cảnh đói nghèo và lạc hậu. Người lính đã chỉ cho người con gái Thái biết được rằng nguyên nhân khiến cho cuộc đời mẹ con cô khổ không phải do cô biết múa xòe và cuộc gặp gỡ tình cờ giữa hai mẹ con đứa bé mù nghèo khổ và bất hạnh với người lính trên đường ra trận đã có tác động sâu sắc đến tâm tư và tình cảm của họ. Rồi những đoàn người gồng gánh tản cư với bao âu lo hằn sâu trên vết mặt. Trần Dần đã mở rộng không gian tác phẩm xuống những miền quê xa xôi. Ở nơi đó, trước đây, gia đình các chiến sỹ trong đại đội 23 đã sống rất cực khổ. Đặt bên một không gian tấp nập rộn ràng của con đường ra trận vào mùa chiến dịch, ngay trong những chương đầu đó là dự báo về những cơn bão lửa sẽ bùng nổ.

Chân dung người lính Điện Biên còn được Trần Dần thể hiện ở tình đồng đội mộc mạc, thâm sâu qua mối tình cảm giữa các thành viên trong tổ chủ công là No, Sửu, Sâm, Truyện, giữa Ngụp và Xanh, giữa Ngọc và No. Sau khi Truyện hy sinh, nỗi nhớ thương đồng chí cứ trỗi lên trong tấm lòng những người đồng đội như một lời nhắc nhở. Sau trận công đồn Him Lam, buổi chiều No đi qua dãy hầm của đơn vị bộc phá ở “chiều qua còn rầm rập bóng người, bây giờ vắng ngắt. Ở một gian hầm có tiếng sụt sịt... Pha ngồi một mình trước đống ba lô anh em còn để đầy hầm. Di tích còn đây mà người không còn nữa”. Trong trận chiến đấu ác liệt, phần thắng thuộc về những người chiến sỹ dũng cảm, song họ đã không thể kìm lòng được trước sự ra đi của đồng đội. Vào thời điểm bấy giờ, những người lính quan niệm rằng tình cảm riêng tư sẽ làm ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu. Cũng như trước đây, khi pháo đứt dây, đổ dốc và chèn nát đùi pháo thủ Thủ, Thủ đã không dám kêu vì sợ ảnh hưởng đến tinh thần của đồng đội. Trần Dần không né tránh những tổn thất do chiến tranh. Những sự hy sinh ở những tư thế khác nhau của người lính: chết đứng như Truyện lúc công đồn, như Luân lúc kéo pháo, như Lâm lấy thân mình chèn pháo và gan góc chịu đựng cái chết đến dần dần khi bị pháo chèn nát đùi như Thủ... có lẽ không chỉ cho thấy tính chất ác liệt của cuộc chiến đấu mà về một phương diện nào đó là những sự thể hiện khác nhau về tinh thần người chiến sỹ.

Trong đời sống chiến đấu người chiến sỹ biết tìm ra sợi dây quàng vào vai để kéo pháo hiệu quả mà không bị mất sức, đã biết lấy cỏ tranh làm mũ để che miểng pháo tránh thương vong và khi không may rơi vào tay giặc đã tìm cách lừa lại chúng để trốn thoát. Những con người ấy trong chiến đấu chỉ có chiến thắng và tất nhiên họ sẵn sàng hy sinh cho kết quả cuối cùng của trận đánh. Cũng cần phải nói thêm rằng những năm tháng kháng chiến gian lao, phần riêng tư trong đời sống tình cảm của chiến sỹ thường ít được người viết đào sâu. Bao giờ thì phần tình cảm chung, tình cảm đồng chí đồng đội cũng được coi là cao nhất và chi phối mọi hành động. Cuộc chia tay của hai người đồng chí trong bài thơ Không nói của Nguyễn Đình Thi dẫu rất bùi ngùi nhưng vẫn “nào đồng chí bắt tay”... Còn Sửu, đã hai năm xa nhà, đi qua ngõ nhưng không dám ghé vào vì sợ tình cảm riêng tư sẽ níu bước chân anh lại. Trong tâm tư những người lính trong Người người lớp lớp có phảng phất nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương. Mà cái phần tình cảm đó như một thứ phụ gia cho tinh thần dũng cảm hy sinh trong chiến đấu. Đây là đặc điểm của một quan niệm có tính lịch sử.

Ra đời trên đường vào chiến dịch và viết tiếp khi chiến dịch đã toàn thắng, cuộc chiến đấu gian khổ, anh dũng trong Người người lớp lớp năm mươi năm qua vẫn như còn phả ra những hơi thở nóng hổi. Tinh thần hăng hái nhiệt tình trong công việc nhưng trong quan niệm và suy nghĩ lại có phần giản đơn ở người lính đã thể hiện rất rõ đặc điểm dấu ấn của lịch sử. Những cảnh sinh hoạt bộ đội, cảnh kéo pháo rồi lại kéo pháo ra thực sự là những bức tranh sống động cho thấy nếu tác giả không là người mục kích thì sẽ không thể nào viết được những trang văn chân thực đến thế. Cảnh hành quân của đại đoàn lên Tây Bắc được đặc tả với bút pháp lãng mạn, gợi cho chúng ta nghĩ đến đoàn quân Tây Tiến năm xưa. “Lục thoăn thoắt bước chân, miệng kể chuyện, đầu thường là ngẩng lên trong gió thổi bần bật... Đoàn quân hăm hở đi trong gió lộng mùa đông. Trong tâm hồn chiến sỹ cũng nổi gió ầm ầm y như gió nổi khắp bầu trời bát ngát”.

Một thời Người người lớp lớp ít được nhắc đến. Đó không chỉ là một thiệt thòi cho tác phẩm vì trên thực tế, tác phẩm này có một vị trí nhất định trong văn học giai đoạn kháng chiến chống Pháp và là trong số những viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho văn học viết về chiến tranh. Không thể đòi hỏi ở đây một sự trọn vẹn nếu xét về góc độ thể loại vì chất phóng sự đậm, vì nhân vật chưa đi sâu, chưa mang tính đơn lẻ cá biệt về tính cách, số phận. Viết về cuộc chiến đấu ở tầm quy mô của một chiến dịch mà mở đầu bằng những cuộc hành quân đầy khí thế, kết thúc là sự toàn thắng với cuộc sống mới đang hồi sinh và những người lính lại chuẩn bị bước vào một cuộc chiến đấu mới, “cuộc sống tràn lên như biển, như sóng” với những “người người lớp lớp nối theo nhau”... sau này ta còn gặp lại trong Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu. Hai nhà văn quân đội viết về hai cuộc chiến đấu trong hai chiến dịch ở hai thời điểm khác nhau, song họ lại có chung một điểm tương đồng trong cấu trúc truyện và trong tình cảm đối với người chiến sỹ và Tổ quốc. Lau lớp bụi thời gian một thời từng phủ lên cuốn sách, chúng ta ghi nhận sự đóng góp của tác giả Người người lớp lớp. Dù sao đây cũng là cuốn tiểu thuyết sớm nhất đem đến cho độc giả một bức tranh sinh động về một chiến dịch được coi là ”huyền thoại”, “một điểm hẹn lịch sử”, một “cột mốc bằng vàng” trong đó cuộc chiến tranh nhân dân và chủ nghĩa anh hùng trong chiến đấu của những anh bộ đội Cụ Hồ được tác giả thể hiện một cách sinh động và cụ thể: chiến dịch Điện Biên.

T.P.L  
(190/12-04)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.