Đọc Dương Thu Hương

08:55 10/03/2017

ĐỖ ĐỨC HIỂU

“Đọc văn chương” là một khoa học. Chúng tôi nghĩ rằng chúng ta cần có nhiều cách ứng xử trước tác phẩm văn chương.

Nhà phê bình Đỗ Đức Hiểu

Từ lâu nay, hầu như chúng ta chỉ có một “kênh đọc”, tạm gọi là “cách đọc truyền thống”, tức là có những hài hòa, những cấu trúc nhịp nhàng giữa tác phẩm và người đọc. Một khi cấu trúc tác phẩm đi chệch cấu trúc “truyền thống”, người đọc cảm thấy có sự xộc xệch, thấy bỡ ngỡ, ngạc nhiên, có thể bị những “cú sốc”. Ở thế giới đầy ắp tín hiệu, đầy ắp làn sóng điện phát thanh, đầy ắp kênh truyền hình mà chúng ta đang sống, chúng tôi quan niệm một “kênh” đọc sách (hay tiếp nhận văn bản) là không đủ. Để tâm hồn chúng phong phú, ngày càng đẹp, cần nhiều tiếng nói khác nhau, nhiều kênh thông tin, để người đọc lựa chọn; sự tiếp nhận phải đa dạng, đa thanh, phù hợp với cuộc sống sinh động, nhiều màu sắc trong sự vận động của nó.
 

Trong bài báo nhỏ này, chúng tôi trình bày một cách đọc Dương Thu Hương, nói chính xác hơn, một cách đọc ba tiểu thuyết của nhà văn nữ: Bên kia bờ ảo vọng (1987), Những thiên đường mù (1988) và Quãng đời đánh mất (1989). Thường thường sự tiếp nhận tác phẩm văn chương bắt đầu bằng trực giác, sau đó người đọc suy nghĩ và phân tích, người phê bình và người nghiên cứu lựa chọn phương pháp tiếp cận thích hợp nhất và có hiệu quả nhất đối với tác phẩm. Ba quyển truyện chưa đầy một nghìn trang, mà chứa đứng một lượng thông tin khổng lồ về cảnh vật, con người, cuộc sống: Chợ nông thôn, chuyến đò ngang, bến tàu, sân bay, phố nghèo, khách sạn tráng lệ… Biết bao hoạt cảnh: Ký túc xá sinh viên vui nhộn loạn ẩu, cuộc chia ly “nham nhở” ở Nội Bài, ngày giỗ, gửi tiền tiết kiệm thành gửi mớ giấy lộn, “kế hoạch nhỏ” thảm hại của trường phổ thông… Biết bao cuộc đời thoáng qua: Chàng lãng tử, ký giả quèn, cô gái buôn hàng qua biên giới, tổng biên tập một tờ báo lá cải, nữ tỉnh ủy viên… Những cảnh, những người, những đua chen, tiếng hát “Thu sang” Con xồm trắng, ông già Kin khốn khổ trên miền núi khốn khổ… họp thành một bức tranh hỗn tạp, đầy âm thanh xô bồ, nháo nhác, những hình ảnh lấp loáng, vụt đến, vụt biến đi, làm người đọc chóng mặt, người ta ngấu nghiến trang này, trang khác. Những thông tin trong tiểu thuyết Dương Thu Hương tưởng như không bao giờ cạn. Ngòi bút xông pha và đầy âm thanh, chuyển động và màu sắc, ngòi bút hối hả của một nhà báo say mê cuộc sống, cuốn hút người đọc.

Chỉ một cảnh bình thường, một chi tiết nhỏ trong đời sống hàng ngày cũng khiến nhà văn say mê, phát hiện, sáng tạo. Sau đây, kể một đoạn văn ngắn bất kỳ, tả lùm cây đăng tiêu: “Đó là một dây leo có vẻ đẹp cuồng dại. Màu lá xanh quá thể là xanh. Với những chùm hoa chi chít màu nghệ thắm, màu của máu, của lửa, của ráng chiều, của mặt trời giữa ngọ, cùng một lúc hòa trộn với nhau” (Những thiên đường mù, tr.109). Ngòi bút tân văn, ngòi bút thông tin của Dương Thu Hương là một ngòi bút thắm tươi, tràn đầy sức sống. Người đọc bị cuốn trong những cơn lốc tưởng như không bao giờ dứt, có lẽ từ nhiều năm nay, bây giờ mới xuất hiện những quyển truyện đầy ắp những gương mặt, những mảnh đời, những cảnh đầu đường, xó chợ, nơi quyền quý đầy uy lực như vậy.

Một phương diện nghệ thuật kể truyện hấp dẫn khác của Dương Thu Hương là nghệ thuật ống kính camera; nó cũng hối hả, sinh động, nó chớp nhoáng. Chủ yếu camera của nhà văn thu những cảnh quá khứ. Đoạn kể truyện khi chậm rãi, khi lướt nhanh, ống kính khi nhìn xa, khi nhìn gần, gần đến mức nhiều lần, một khuôn mặt, hai con mắt chiếm cả màn ảnh (khuôn mặt cô Tâm) trong Những thiên đường mù “Đôi mắt sáng rực như hai hòn than trong hốc mắt thâm quầng. Hai gò má nhô cao với những vết sạn, những đám tàn nhang. Những vết nhăn chân chim sau đuôi mắt. Món tóc bạc lấp giữa món tóc khô xác” (tr.76). Ông Trần Phương “hạ thấp đôi mày xuống… đôi mắt rất đen đầy vẻ giễu cợt… đôi mắt ông biến màu, xám như chì, độc ác và tàn nhẫn” (Bên kia bờ ảo vọng, tr.329). Nhà văn sử dụng nghệ thuật điện ảnh để tái hiện thời gian đã qua. Những thiên đường mù dày 284 trang; 211 trang dành cho chuyện Hằng, nhân vật trung tâm, đi một chuyến tàu đi từ một nước Cộng hòa Xô viết đến Moskva, hơn bảy chục trang còn lại kể chuyện hiện tại. Trong ba phần tư tiểu thuyết dành cho một chuyến tàu vài ngày, thì chỉ một phần năm số trang kể chuyện trên tàu, còn lại là chuyện “quá vãng” – chuyện một xáo động xã hội và chính trị, chuyện những cuộc đời oan uổng, đầy uất hận, chuyện những con người bị bức hại. Câu chuyện này là cấu trúc xương sống của tiểu thuyết, cấu trúc một xung đột lịch sử quyết liệt, mà ngòi bút của nhà văn không bao giờ khoan nhượng. Không phải Dương Thu Hương tàn nhẫn với cuộc sống và nghiệt ngã với phụ nữ, không phải, mà đúng hơn, với quyền lực, và chỉ với quyền lực bạo tàn, man rợ mà thôi, dù đàn ông hay đàn bà. Truyện của Dương Thu Hương chồng chất nhiều lớp, nhiều tầng, với các xen phụ, các ngoại đề. Người kể chuyện dẫn người đọc vào những ngóc ngách, hang cùng ngõ hẻm của xã hội, của cuộc sống muôn mặt đang diễn ra sôi động.

Ba tiểu thuyết của Dương Thu Hương là những thông điệp SOS nóng bỏng về những thực tại, những thực tại rất thực trăm lần thực, ở quanh ta, lan tràn từ nông thông đến thành phố, từ túp lều rách nát đến “Hotel” tráng lệ, từ tờ lá cải hàng ngày đến cơ quan thương nghiệp đồ sộ. Bút pháp báo chí rát bỏng, nghệ thuật tiểu thuyết ciné của Dương Thu Hương là sự “nhập cuộc” say mê của nhà văn. Nhiều lần, tác giả tuyên bố muốn làm “người công dân tốt, “nhà văn – công dân” ấy muốn thức tỉnh dân tộc mình, một dân tộc tài năng, dũng cảm, sáng tạo bằng nghệ thuật tiểu thuyết, nghệ thuật xây dựng những hình tượng ký hiệu.

Đọc ba tiểu thuyết trên, với phương pháp xếp chồng các cấu trúc: (hoặc soi các văn bản) có thể thấy các ký hiệu in hằn lên nhau, không phải đồng nhất mà tương tự, được nhà văn tái hiện nhiều lần, mỗi lần với một tầm cỡ khác và một ý nghĩa khác. Các vấn đề xã hội “ám ảnh” nhà văn, trong giai đoạn sáng tác này, được biểu đạt bằng những cấu trúc tương tự, những biếm họa độc địa kèm theo những bình luận phẫn nộ, những thần tượng đổ vỡ, những Quãng đời đánh mất”, những nạn nhân của quyền lực chẳng hạn, đó là “chàng lãng tử” hoặc “cô gái lãng tử ” trở đi trở lại trong cả ba quyển tiểu thuyết; Chẳng hạn, đó là cảnh ao tù, rãnh đọng. Biểu tượng của cái trì trệ, cái bảo thủ đáng sợ đang tồn tại khắp nơi.

Trước hết, khớp lại nhan đề ba tác phẩm, người đọc thấy một cấu tạp tương phản: Thiên đường mùBên kia bờ ảo vọngQuãng đời đánh mất: một ước mơ xa xôi và một sự dối lừa. Ba nhan đề hợp thành một hệ ký hiệu biểu tượng một thực tế đang vò xé lương tâm con người. Nó gợi người đọc nhớ đến Thiên đường đã mất của Milton mà đề tài là sự sụp đổ của Adam và Eve. Trong ba tác phẩm, nhiều lần nhà văn nói đến “lý tưởng”, “thiên đường”, “giấc mơ đẹp”, và cũng nhiều lần, đến “đổ vỡ”, “tiêu tan”. Trong một cuộc phỏng vấn, Dương Thu Hương nói với một nhà báo: Thiên đường thật là thiên đường tuổi bé thơ, những mơ ước hồn nhiên, trong sáng tuyệt vời, cảnh nông thôn yên ả, có “bến sông, đầm sen, câu cá, bơi thuyền, bỏng rang” và “bà ngoại”. Nhưng trong cuộc đời lại có những “thiên đường mù, không có mắt” và người ta tiêu phí cuộc đời bởi những thiên đường mù ấy (xem báo Lao động, ngày 24-8-1989). Có thể nói ba tác phẩm này họp thành một “Bộ ba tiểu thuyết” tiếp nối nhau.

Với phương pháp “xếp chồng văn bản” có thể thấy những “siêu nhân vật” (chủ yếu các nhân vật đầy quyền lực, tàn nhẫn, sâu xa và các nhân vật nạn nhân, bị chia ly, bị hủy hoại) tức là những nhân vận gốc, nằm sâu xa trong tiềm thức nhà văn và, ở mỗi tác phẩm những biến thái, những phiên bản khác nhau của nhân vật gốc, biểu đạt sự chuyển hóa của quyền lực ở khắp nơi, ở nông thôn, ở thương nghiệp, quyền lực đeo mặt nạ nghệ sĩ, ở gia đình vừa dốt nát vừa tàn bạo, chủ nô của những phụ nữ “nô tì” ngay trong thập kỷ 80 này v.v.. và những nạn nhân người thì chống trả quyết liệt, không khoan nhượng, người thì thoát dần những mê đắm hoang tưởng, người thì mù quáng hèn nhát chấp nhận, người thì phủ nhận bằng lối sống ngoài lề xã hội quan phương.

Quyền lực hoành hành và sụp đổ, đó là hình tượng ký hiệu cơ bản của tiểu thuyết Dương Thu Hương. Tái hiện sự vận động của thần tượng trong tiểu thuyết một cách trào lộng, châm biếm, chủ yếu trong những ngày “hội hè” giữa “đám đông” đó là phương diện nghệ thuật nổi lên rõ rệt ở nhà văn. Trong Những thiên đường mù: “Cậu Chính” là một biếm họa đầy tài năng, nó cứng đờ, nó nhất phiến, nó máy móc, một thứ cơ khí thô lậu, giáo điều. Cái cười gây nên bởi sự lắp ghép cái máy móc, cái cứng nhắc giữa cuộc đời sống động, muôn ngàn vẻ, đó là một luận điểm (cái cười) của Bergson. “Cậu Chính” chỉ có một tư duy; Miệng cậu chỉ là một cái loa phát thanh, “Tôi làm công tác tuyên huấn”. Khu nhà tập thể cậu Chính ở, với những dãy nhà, căn hộ như hệt nhau, “như hai giọt nước” một kiểu, một lối sống, một tư duy đúc thành một khuôn, khu “trại lính” xám nhợt, ở đấy mọi người đều yên ổn, thỏa mãn, không ai đi lệch hướng. Rất hài hước cảnh cậu Chính bình luận: “Tay đồ Chiểu thiếu tinh thần xốc tới, liên tục tấn công”, cái dốt nát, từ đó, cái mặc cảm luôn luôn ám ảnh quyền lực nó đối nghịch một cách thô bạo với dáng điệu hùng hổ của “Cậu”. Dương Thu Hương tinh nghịch viết: “Bàn tay cậu xòe ra như lưới kiếm, chắc chắn nó sẽ chém đứt đôi cái cổ chàng trai dù đó là cái cổ vạm vỡ, tràn trề sinh lực”. Song, khi thấy chàng trai “cúi đầu quy phục” cậu Chính giống như “con gà chọi đã hả máu sau khi bật mấy cú đá chí mạng vào ức đối phương” (Những thiên đường mù, tr.126) và vẫn cái hài dân gian ấy nhà văn kể cuộc đấu tố địa chủ. Cốt cán của tòa án nông dân là Bích, gã lưu mạnh chuyên nghề kể chuyện tiếu lâm để ăn xin chén rượu, miếng xôi, bỗng nhiên lên ngôi ông thánh, là mụ Nần phốp pháp, tham ăn thành giai thoại “bún riêu cua, và lùa sáu bát”, bỗng nhiên oai vệ quát tháo ầm ĩ giữa những tiếng hô rầm rập “Đả đảo địa chủ gian ác” giữa tiếng trẻ con hát “cắt đứt là cắt đứt” giữa tiếng trống ếch om sòm. Trong đám “hội giả trang, đeo mặt nạ” ấy “cậu Chính” lên ngôi trời (lúc ấy đội cải cách là thượng đế, tr.24). Nhà văn tái hiện một “ngày hội” ở nông thôn hiện nay bằng nghệ thuật hài hước ồn ào, bi đát. Trong Quãng đời đánh mất, cũng có những cảnh “đám đông” song không phải hội “đăng quang” mà hội “phế truất”. Đó là hội nghị thương nghiệp toàn tỉnh họp tại một khách sạn bảy tầng sang trọng bậc nhất, thật là oai nghiêm, thật là long trọng. Các vị đại diện tỉnh ủy, các vị giám đốc Sở, đều complet, clavat (tác giả ghi thêm “như một đàn quạ đen”), quốc ca hùng tráng, rồi trống ếch, rồi tặng hoa, rồi diễn văn khai mạc và những tràng vỗ tay (tác giả ghi thêm: các bài phát biểu lặp đi lặp lại một cách nhờn nhãi, như thứ bánh xe đã trờn răng, tr.326). Bỗng từ micro oang oang phát ra “một tiếng nói nhịu rất tục” của một diễn giả khiến phụ nữ “đỏ mặt đỏ tai” đàn ông khoái “cười hềnh hệch”. Thế là cái oai nghiêm vỡ tung, người ta nói cười ầm ĩ, chuyện trò ỏm tỏi. Cuối cùng, nữ tỉnh ủy viên “mới toe” Ngọc Bích là người đàn bà hám quyền lực, “xoạch”… “tr… oách”, lõa lồ trong giường của Trọng, trước mắt quan chức và bạn bè – thiên đường tan vỡ, thần tượng sụp đổ. Trong tiểu thuyết này còn diễn ra sự sụp đổ của quyền lực khác giữa một “đám đông” khác. Một ngày giỗ, nhà ông Khánh – vẫn một tay dốt nát, độc đoán, dã man, nườm nượp khách ăn, các mâm cỗ đầy tú hụ, bày la liệt trong nhà, ngoài sân. Đính, đứa con trai út, 15 tuổi, đã đọc một bài diễn văn “động trời” tố cáo cái quyền lực bạo tàn và phí lý mà bố cướp đoạt được của vợ và con, và bấy lâu nay bị chôn vùi dưới “bùn đất của tòng phục và ngu xuẩn” khiến cái đám đông “vốn quen sống kiếp mù lòa” sững sờ “như bị sét đánh”. Dương Thu Hương là nhà văn của đám đông, của ngày hội. Có lẽ đó là những ký ức sâu xa về hội hè, đình dám nông thôn ngày xưa, rất “phương Đông”. Cũng cảnh ấy trong những Thiên đường mù, cảnh cô Tâm, ngày mừng Hằng đỗ vào trường đại học, đông đủ bà con làng xóm, cỗ bàn linh đình, cô Tâm kể chuyện, dưới triều Tự Đức tri huyện Trần Bình hống hách, lộng hành, ức hiếp dân, kể đến chuyện “con ba ba” thì đám người “cười ré lên, cưới ré từng hồi, nức từng cơn” và ông phó chủ tịch, một quyền lực, mất mặt. Hình ảnh quyền lực còn nhiều sắc thái khác: Lão đại tá trưởng đoàn văn công, cái mồm tanh tưởi và hôi hám mùi thuốc lào luôn luôn thuyết giáo “lợi ích cách mạng” liền đó vồ lấy một cô văn công trẻ đẹp; và ông Phó giám đốc mặc áo đại cán, mồm xoen xoét “cuộc đời hắn là phục vụ cho cách mạng cho tới hơi thở cuối cùng” đồng thời cưỡng bức một bé gái 14 tuổi. Còn những cuộc “nhảy vô hình”, người nhảy ôm khư khư “cái ghế quyền uy và bổng lộc” mà nhảy nhót suốt đời không chịu buông tha. Và bà Tòng, và bà Trưởng cửa hàng rau v.v…

Các nhân vật quyền lực ấy được mô tả dưới nhiều sắc thái: con rối, thằng hề, mặt nạ, tác tuyp, đàn ông, đàn bà, già và trẻ, cấp thấp, cấp cao. Chúng sống thỏa mãn trong hoang tưởng và đổ nhào trong những tiếng cười ồn ào, tiếng cười tiếu lâm. Có thể nói như Dương Thu Hương, có sự “lạm phát” quyền lực dốt nát.

Nhân vật nạn nhân cũng được tái hiện nhiều lần trong ba tiểu thuyết với nhiều dạng vẻ: Bi kịch của Phương Linh, một trái tim say đắm, hồn nhiên, nguyên chất và trong suốt đã quyết liệt từ bỏ người chồng hèn nhát, với một tiếng kêu “thằng điên” và từ bỏ ảo tưởng thứ hai, một nhạc sĩ “hèn hạ”, “ti tiện”, “tên đại bợm”, với một tiếng thét: “Đồ khốn nạn!” – và cô Tâm chống trả ngay từ đầu quyền lực đã bức hại mẹ cô, em trai cô, bằng cả cuộc đời mình. Trọng lột trần truồng một người đàn bà hám quyền lực, hám đến mất hết tính đàn bà. Còn Cường vì yếu hèn “đánh mất quãng đời” trẻ trung của mình trước một quyền lực đầy hoang tưởng; cô Quế, mẹ Hằng, là một nạn nhân đáng thương của quyền lực và định kiến.

Với Dương Thu Hương cuộc sống không yên ả, ba quyển tiểu thuyết mở ra một thế giới khác, thế giới hàng ngày, xung quanh ta, thế giới của cái Ác, cái Thiện hiện đại, với những người hiện đại, pha trộn cái gia trưởng, cái tôn giáo, cái ảo giác, cái vụ lợi, cái ngu dốt, quay cuồng xung quanh cái trục cái: Quyền lực, cái Ác và cái Thiện ấy mang dáng dấp như trong truyện cổ tích phương Đông. Truyện còn hấp dẫn người đọc bằng những nét tươi tắn đùa vui. Có thể nói đến những “ngoại đề” của cách viết, ngoại đề ở đây không phải những trang lịch sử, một nền nghệ thuật gôtích, không phải một tiểu thuyết hoặc những bình luận đạo đức hay lý luận học, mà những chân dung phác họa những cuộc đời thoáng qua. Ngòi bút tân văn của nhà tiểu thuyết sáng tạo những loạt hình làm cho tác phẩm thêm náo động. Đặc biệt, đáng chú ý là những chàng trai, những cô gái “lãng tử”. Hình tượng ký hiệu này trở đi trở lại trong ba tiểu thuyết: Ngọc Minh trong Bên kia bờ ảo vọng, cô phóng viên mũi hếch, mặt vuông, bướng bỉnh, “đếch coi đời ra cái gì” với cô, ai ai cũng đeo mặt nạ đạo đức giả, cô gái hoang dã, vô tâm, hào phóng tự do, ngủ với bất cứ ai cô yêu thích, khinh rẻ tất cả (có lẽ chỉ trừ Trần Phương, tuy cô đã bị bỏ rơi), không một gắn bó thân thiết, ở một căn phòng – lữ quán, cô gái có khi chợt nhớ rằng mình cũng có một đứa con trai năm tuổi, tức tốc đi mua một đống quần áo trẻ con đẹp nhất, một túi bánh kẹo ngon nhất cho con, vồ lấy nó hôn rối rít, rồi lại ra đi, sống ở phố phường, quán cà phê, quán rượu. Trong Những thiên đường mù, chàng lãng tử “Yến Thanh” ở Moskva hoạt bát, hào hoa, hồn nhiên, yêu đời và yêu phụ nữ, khinh bỉ bọn người mồm nói “cách mạng” tay vun vét từng đồng copec. Tập tiểu thuyết thứ ba Quãng đời đánh mất phác họa cô lãng tử Kim Lan, cô gái trẻ đẹp chưa chồng rất tự hào có đôi mắt lá khoai “liếc chồng thì ít liếc trai thì nhiều”. Cô gái, “chưa kịp lấy chồng đã chán chồng như cơm nếp nát”. Còn phải kể chàng họa sĩ lãng tử đeo túi thổ cẩm bẩn thỉu, chân tình, khảng khái, coi vàng như rác, chỉ đắm say có nghệ thuật và cái đẹp. Những chân dung “ngoại đề” này mang đến cho tiểu thuyết những vòng tròn ánh sáng rực rỡ. Các lãng tử ấy, dưới ngòi bút hóm hỉnh của nhà văn, là những người sống ngoài rìa xã hội quan phong, khinh rẻ nó.

Đọc bộ ba tiểu thuyết của Dương Thu Hương, người đọc có những cảm tưởng vừa thân quen, vừa bỡ ngỡ; bỡ ngỡ hay ngạc nhiên, bởi vì cấu trúc tác phẩm như chệch cấu trúc của nhiều tiểu thuyết trước đây, thân quen bởi vì người đọc đang sống trong cái môi trường đầy ắp những cảnh đời sôi động mà nhà văn tái hiện. Cảm tưởng thân quen và bỡ ngỡ tạo nên một dòng sông chảy đầy hứng thú giữa tác phẩm và người đọc, dòng sông mỹ cảm làm đẹp tâm hồn người đọc. Nghệ thuật tiểu thuyết Dương Thu Hương là nghệ thuật nhiều tiếng nói như chính cuộc sống, tiếng nói chủ yếu là tiếng cười, cái cười dân gian, cái cười hội hè, đình đám, ồn ào phá phách. Cái cười này được tạo nên bởi mâu thuẫn giữa cái nghiêm trang và cái thô kệch, cái quan phương đạo mạo và cái tục tĩu, phong cách cao và phong cách thấp; nó tạo nên một xã hội đảo nghịch, một phản lịch sử (lịch sử hiểu theo nghĩa lịch sử phổ biến, chính thống) bởi vì tiểu thuyết của Dương Thu Hương là phản tiểu thuyết (hiểu theo nghĩa: tiểu thuyết chống lại tiểu thuyết “truyền thống” có những cấu trúc khác). Cái cười nhại, nhại cái đạo đức, cái trịnh trọng, cho người đọc thấy một thế giới bị bao nhiêu thông tin hàng ngày che giấu. Bằng nhiều bút pháp Dương Thu Hương phát hiện cái ẩn giấu: tả cảnh ao bèo tù hãm, nhớt nhát, rãnh nước khai nồng nặc, vịnh Hạ Long im lìm ngưng đọng, u uất với những con mắt chột độc địa, kể chuyện tâm tình với Vĩ Thanh nhiều chất thơ, với những thiên đường thủa nhỏ, hồn nhiên tươi thắm. Văn chính luận dằn dữ của nhân vật đối với dáng dấp đầy quyền lực và đầy mặc cảm, thi bao nhiêu không đỗ tiểu học, một kẻ khác ba năm không thuộc một bài phú, độc đoán, bạo ngược, một người đàn bà đỗ lớp bảy rao giảng triết học. Dương Thu Hương muốn thức tỉnh người đọc bằng những thông điệp, những thông điệp “cần cho đám đông và có tính cấp bách cho toàn xã hội” những thông điệp giàu tính nghệ thuật. Theo Dương Thu Hương, nhà văn Việt Nam “Sống và viết vì nhân dân và Tổ Quốc mình, nhân dân Việt Nam anh hùng, rất đỗi anh hùng, nhưng quá đau khổ, oan khuất và lầm than” (Tham luận tại Đại hội IV Nhà văn Việt Nam).

Bộ ba tiểu thuyết kể trên là ba thông điệp liên tiếp gửi tới người đọc, không phải thông điệp bình thường, mà thông điệp nghệ thuật, tức là nó hàm chứa trong nó cái mỹ học của ngôn từ, cấu trúc, ký hiệu, biểu đạt tình cảm, tư tưởng và tạo một kênh cảm nhận đầy xúc động giữa nhà văn và người đọc, người gửi thông điệp và người tiếp nhận. Bên dưới diễn biến những cốt truyện, những số phận con người, những chân dung, những cảnh tả (cấu trúc nổi) là những làn sóng ngầm của cảm xúc và tư duy là những lớp nghĩa chìm, có thể thấy ở đấy cấu trúc xã hội hiện nay, những mâu thuẫn và những đối lập, sự vận động hối hả của lịch sử hiện nay.

Nhà văn thường muốn đối thoại với người đọc trước hết bằng tác phẩm nghệ thuật của mình. Bên trên là tiếng nói của một người đọc Dương Thu Hương.

Đ.Đ.H
(TCSH42/04&05-1990)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LGT: Bài viết tóm tắt những yếu tố và tiến trình tạo thành thơ Tân hình thức Việt, qua sự đối chiếu giữa các thang giá trị, thơ Việt và thơ Anh Mỹ. Vì vậy, tuy không thể tránh những từ chuyên môn về luật tắc thơ, nhưng chúng tôi cố gắng viết rõ ràng từng chi tiết, để người đọc dễ nắm bắt. Thơ Tân hình thức Việt đơn giản, dễ hiểu, nhờ sự tham khảo những nguồn thơ khó, điều này cũng tự nhiên, như Pop Art (bình dân) phản ứng lại hội họa Trừu tượng Biểu hiện (cao cấp). “Nghĩ về cách làm thơ”, cần đọc chậm rãi, trầm tư, và nhiều lần, nếu người đọc thật sự muốn tìm hiểu dòng thơ này.

  • ĐẶNG ANH ĐÀO

    Có thể nói rằng Những thiên đường mù là một câu chuyện dệt bằng những mảnh ký ức trên nền hiện tại.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN

    Diễn ngôn tâm thần phân lập (discours schizophrénique) là thuật ngữ do hai triết gia và nhà nghiên cứu văn học người Pháp là G.Deleuze và F.Guattari đề xuất trong công trình viết năm 1972, Chủ nghĩa tư bản và bệnh tâm thần phân lập: Chống Oedipe (Capitalisme et Schizophrénie I. L’Anti-Œdipe).

  • ĐỖ QUYÊN   

    “Hãy đánh chết nó đi, nhà phê bình văn học - cái thằng khốn!”
                                                (J.W. Goethe)

  • Từ năm 1972 cho tới nay đã có nhiều học giả, qua tập Yên thiều bút lục mới sưu tầm và vài nguồn tư liệu khác, đưa ra nhận định: Câu đối “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm/ Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” là của tri phủ Ngải Tuấn Mỹ người Hoa tặng phó sứ Nguyễn Tư Giản khi sứ bộ Việt Nam ghé lại địa phương này chứ không phải của Cao Bá Quát.

  • PHẠM TẤN XUÂN CAO

    Tính khả hữu từ sự xuất hiện của đối tượng trong các chiểu sự là hình thái của đối tượng.(1) (Wittgenstein, Tractatus, 2.0141)  
    Khi một điều gì đó trở nên đúng trong hư cấu thì ở đó không còn sự phân biệt khác nhau về mặt hữu thể học và nhận thức luận.”(2) (Gregory Currie) 

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH

    Hài hước: cơn say của tính tương đối nhân thế, niềm vui thú kỳ lạ nảy sinh từ niềm tin chắc rằng chẳng có sự tin chắc nào cả. (Milan Kundera)

  • NGUYỄN THANH TÂM

    Đạo đức (ethic, morality), luân lý (moral), theo Edgar Morin, hai khái niệm này không tách rời nhau, đôi khi chồng lấn và có thể sử dụng bất cứ từ nào(1).

  • NGUYỄN QUANG HUY

    - Để tìm hiểu không gian xã hội của những người sản xuất văn hóa, cần phải tư duy theo mô hình quan hệ.
    - Sự việc, hiện tượng bản thân nó không quan trọng, mà chính quan hệ giữa chúng mới có ý nghĩa.
                            (Pierre Bourdieu)

  • KHẾ IÊM

    Viết hy vọng có thể giúp người đọc tự đánh giá thơ, theo đúng tiêu chuẩn của dòng thơ này, và những nhà thơ Tân hình thức Việt, trong việc thực hành, có thể điều chỉnh những sáng tác của mình, đi xa hơn, và làm nổi bật sự khác biệt giữa các thể loại thơ, tự do và vần điệu.

  • PHẠM THỊ HOÀI

    Tôi không nói tới việc viết văn thuần túy vì mục đích kiếm sống, dù đấy là điều rất đáng bàn, và hơn nữa, sự nghèo túng của những người cầm bút ở xứ sở này đã trở thành truyền thống; cũng không nói đến việc viết văn để kiếm chác một vài thứ khác ít đáng bàn hơn, như danh vị hay thứ đặc quyền xã hội nào đó.

  • LỮ PHƯƠNG

    Sau khi Sông Hương 36, 1989 xuất hiện, cũng đã xuất hiện một số bài báo phản ứng, trong đó có hai bài nhắc đến bài viết của tôi (1) - bài ký tên Trần Phú Lộc: “Ðôi lời nhân đọc Sông Hương số 36”, Văn nghệ số 21, 27-5-1989 và bài ký tên Văn Nguyên: “Báo động thật hay giả”, Nhân dân 20.5.1989.

  • MAI ANH TUẤN

    Cụm từ “văn chương Nguyễn Huy Thiệp” không chỉ được tạo ra bởi và thuộc về giai đoạn văn học Đổi mới (1986) mà giờ đây, rộng rãi và phức tạp hơn rất nhiều, đã có mặt trong nhiều nghiên cứu Việt Nam (Việt học) đương đại, từ văn hóa văn chương đến chính trị - xã hội.

  • ĐỖ ĐỨC HIỂU

    14 tháng bảy 1789, nhân dân Pari chiếm và phá ngục Bastille, biểu trưng của chế độ phong kiến đã tồn tại ở Pháp hàng chục thế kỷ. Nó là một "đại hồng thủy" cuốn sạch một thế giới cũ và mở đầu một thế giới mới ở Pháp, ở Châu Âu và vang dội trên toàn thế giới.

  • TRẦN HOÀI ANH

    1.
    Nói đến triết học phương Tây, không thể không nói đến chủ nghĩa hiện sinh, một trào lưu tư tưởng chủ yếu trong trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi duy lý của triết học phương Tây hiện đại.

  • JOSEPH EPSTEIN

    Có một số thứ ở đó sự tầm thường là không thể được dung thứ: thơ, nhạc, họa, hùng biện.
                                    (La Bruyère).

  • LÊ THÀNH NGHỊ

    Văn học nghệ thuật có sứ mệnh phản ảnh sự thật cuộc sống qua đó rút ra bài học ý nghĩa đối với con người. Nguyên lý này không có gì mới mẻ. Lịch sử văn học nghệ thuật cũng chứng minh rằng, gắn bó với hiện thực, phản ảnh chân thực hiện thực là thước đo giá trị của tác phẩm. Điều này cũng không còn xa lạ với mọi người.

  • NGUYỄN THỊ TUYẾT

    A work of art was a form expressive of human feeling,
    Created for our aesthetic perception through sense or imagination.

    - S. Langer(1)
    I paint objects as I think them, not as I see them.
    - Pablo Picasso(2)