Đọc “Thơ Phùng Quán”

16:40 11/08/2008
NGUYỄN BÙI VỢICách mạng tháng Tám thành công, Phùng Quán mới 13 tuổi. Mồ côi cha từ năm 2 tuổi, cậu bé sinh ra ở làng Thuỷ Dương xứ Huế chỉ được học hết tiểu học, sáng đi học, chiều giúp mẹ chăn trâu, có năm đi ở chăn trâu cho một ông bác họ.

Nửa ngày phơi nắng, phơi mưa ngoài đồng, đuổi nhau, lặn ngụp nước ao, dưới sông rồi trèo lấy tổ chim non, đổ nước vào hang dế... chơi trò nào, Phùng Quán cũng là đứa bé nhiệt tình, hăm hở và có sáng kiến nhất.
Cái không khí náo nức của xóm làng những ngày đầu cách mạng, tiếng hô “đi đều bước” và nhịp trống rộn ràng của đội thiếu niên ca-lô nâu vàng rầm rập... “một hai một” đã làm cậu bé nôn nao! Phùng Quán trốn nhà, tìm đến một đơn vị Vệ quốc đoàn gặp chỉ huy xin đi đánh Pháp. Quán được nhận làm liên lạc của tiểu đoàn, sống trong doanh trại bộ đội. 17 tuổi, anh chính thức được phiên chế vào đơn vị chiến đấu. 18 tuổi, anh bắt đầu làm thơ, những câu thơ sôi sục tinh thần chiến đấu chống ngoại xâm, tràn ngập niềm tự hào về nước Cộng hoà trẻ tuổi. Các cấp chỉ huy ở đơn vị thấy Phùng Quán thông minh, ham học hỏi đã khuyến khích anh học văn hoá, có tờ báo nào là đưa cho anh đọc.
Bài thơ đầu tiên, tôi đọc của Phùng Quán là bài thơ “Hôn” viết năm anh 22 tuổi:
            Khi người ta yêu nhau
            Hôn nhau trong say đắm
            Còn anh, anh yêu em
            Anh phải đi ra trận.

Khẩu khí của lính, có mùi trận mạc, thoáng hơi hướng thơ Pê-tô-phi. Phùng Quán cùng lứa với tôi, hơn tôi một tuổi, nên đọc thơ bạn, tôi đều lấy lòng mình ra đo. Tôi gặp Phùng Quán năm 1956 ở Hà Nội - cái năm định mệnh đã đưa Phùng Quán ra khỏi phòng Văn nghệ quân đội khi ánh hào quang của tiểu thuyết Vượt Côn Đảo tắt dần. Chúng tôi dễ thân nhau vì cùng một cái “típ” người “Tinh anh phát tiết ra ngoài...”(Kiều), bồng bột, xốc nổi, yêu ghét hiện ra mặt, cả tin, dễ buồn, dễ vui... Tuổi trẻ có không biết bao nhiêu thói xấu, nhưng nếu Trời không “ban” cho những thói xấu đó thì chúng tôi làm sao có thể đến được với Thơ? Hồi đó, đọc mấy bài thơ dài của anh như: “Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo” (1954), Tôi tự hào chế độ nước tôi (1955), Tôi muốn mời đến Tổ quốc tôi (1955), lòng tôi nhiều khi run lên vì phấn khích:
            Bạn hãy vượt qua một vạn con sông
            một vạn trái đồi
            Thấy một xứ sở giang tay ôm biển lớn
            Việt Bắc, Trường Sơn, núi cao rừng rậm
            Đồng Tháp Mười mỏi cánh cò bay
            Lòng chảo Điện Biên vạn quân thù tan nát ở đây
            Đồn luỹ hôm qua xanh màu ruộng cấy
            Nước Việt Nam anh em ở đấy.. v.v...
Càng lớn tuổi, lòng yêu thương những bài thơ ấy cứ giảm dần và sắp đến tuổi “cổ lai hy” thì lại có phần khó chịu vì hiểu ra thơ không phải như thế, thơ không được nói trực tiếp, không được nhiều lời, không được đao to, búa lớn, thơ nói chuyện này mà bắt người đọc phải nghĩ về chuyện kia, nói trời mây mà nói đến lòng người đang buồn thăm thẳm... Sau này, tôi biết khi trong bộ đội, Phùng Quán là tay độc tấu rất giỏi, sôi sục, lôi cuốn. Thời ấy tôi nghe nói chỉ có ba người độc tấu cừ: Thanh Tịnh, Hoàng Cầm, Phùng Quán.
Ba bài thơ dài của anh thời ấy tôi thích đều đầy nhiệt huyết với đất nước, với nhân dân nhưng cũng đầy chất tấu.
Trong chùm thơ viết theo kiểu ấy, tôi để riêng ra bài “Chống tham ô lãng phí”, vì đây là bài thơ bộc lộ tính cách và nhân cách Phùng Quán rõ nhất: anh không viết bằng mực nữa mà viết bằng máu của mình (tuy nó có hơi hướng Mai-a). Đất nước sau chiến tranh thiếu thốn trăm bề với “Những bà mẹ quấn giẻ rách/ Da đen như củi cháy giữa rừng” với “Hai mùa rồi lúa không có một bông/ Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ” với “Những em thơ còm cõi... Cơm thòm thèm độn cám và rau” với “chị em công nhân đổ thùng/ Run lẩy bẩy chui hầm xó tối”... thế mà:
            Về Định mà xem
            Đài xem lễ họ cao hứng dựng lên
            Nửa chừng bỏ dở
            Mười một triệu đồng dầm mưa giãi gió
            Mồ hôi máu đỏ mốc rêu.
Hồi ấy, bậc 1 lương cán sự tốt nghiệp trung cấp là 36 đồng, giá trị của 11 triệu đồng lúc ấy theo mức lương bây giờ mà tính ra là hơn 1 tỷ. Người ta đổ đi không tiếc hơn một nghìn triệu đồng mồ hôi nước mắt của nhân dân!
Càng về cuối, Phùng Quán như gầm lên:
            Bọn tham ô, lãng phí, quan liêu
            Đảng đã phê bình trên báo
            Còn bao tên chưa ai biết ai hay
            Lớn bé, nhỏ, to, cao, thấp, béo gầy...
            Chúng nảy nòi sinh sôi như dòi bọ
Bài thơ đã cảnh báo một tai hoạ của đất nước, thế mà tiếc thay đến đầu thế kỷ 21 này, 45 năm sau Đảng Cộng sản trong công việc chỉnh đốn Đảng lại phải ráo riết kêu gọi “chống tham nhũng, lãng phí!”. Tham nhũng còn nặng hơn tham ô.
Năm 1958, tôi dạy học ở Vĩnh Phúc, ngày dạy ở trường phổ thông, mỗi tuần bốn tối dạy bổ túc văn hoá cho cán bộ các cơ quan tỉnh. Năm ấy, Quán bị... rồi. Một hôm, phấn khích một cách dại dột tôi đọc hùng hồn bài thơ “Chống tham ô lãng phí” cho học viên nghe. Im phăng phắc. Không khí trong lớp ngột ngạt như trước bão. Tôi nhìn rõ cả nét giật giật trên mặt một ông Trưởng ty ngồi bàn đầu.
Từ bàn thứ ba, một học viên mặt mũi phương phi, tóc hoa râm đứng dậy:
Tôi xin hỏi thầy giáo: Phùng Quán lấy tư cách gì mà phê phán xã hội như thế?
Tôi điềm tĩnh:
- Thưa anh, trước hết tác giả lấy tư cách công dân rồi mới lấy tư cách nhà thơ. Phùng Quán không phê phán xã hội mà phê phán tệ nạn xã hội: đó là tệ tham ô, lãng phí.
Bài thơ này, không ai nói gì trên báo nhưng đến năm 1958, khi anh in “Lời mẹ dặn” thì Phùng Quán bị báo chí phê phán, mà khởi đầu là bài viết của ông H.V.H (ký bút danh tôi không nhớ nữa, in trên báo Nhân dân).
Cái lõi ý tưởng của bài thơ là:
            Người làm xiếc đi dây rất khó
            nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
            đi trọn đời trên con đường chân thật
            Tôi muốn làm nhà văn chân thật
            Chân thật trọn đời
            Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
            Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã.
Để dẫn đến điều ấy, anh phải bịa ra việc một lần anh nói dối mẹ suýt bị ăn đòn, mẹ khuyên anh phải làm người chân thật, anh chưa hiểu được mẹ giải thích:
            Con ơi một người chân thật
            Thấy vui muốn cười cứ cười
            Thấy buồn muốn khóc là khóc
            Yêu ai cứ bảo là yêu
            Ghét ai cứ bảo là ghét
            Dù ai ngon ngọt nuông chiều
            Cũng không nói yêu thành ghét
            Dù ai cầm dao doạ giết
            Cũng không nói ghét thành yêu
(Dạo ấy, tôi góp ý với anh sửa chữ “cầm” bằng chữ “giơ” (giơ dao doạ giết) nhưng anh không nghe)
Ngẫm cho cùng, bài thơ không sai gì cả. Những lời mẹ dặn anh muôn thuở vẫn là bài học vỡ lòng về cái sự làm người mà ở xã hội nào, con người nào cũng phải có.
Bài thơ được sắp xếp lớp lang, là loại thơ “luận đề” với cái chất ồn ào của Phùng Quán. Người ta phê phán vì khó chịu với cách nói vỗ mặt, quyết liệt, châm chọc của anh chăng? Trường hợp này rõ là: “Yêu nên tốt ghét nên xấu!”
Vì đã thiệt thòi, vất vả nên làm thơ về cây cỏ, hoa lá, Phùng Quán cũng cứ “một lời là một vận vào khó nghe”. Anh khiếp phục cây vạn niên thanh chỉ vì:
            Anh uống độc khí trời
            Anh xơi
độc nước lã
            Anh vẫn tràn trề sức lực tươi xanh.
Anh yêu cây xương rồng “không cành cũng không lá/ Toàn những thân với thân/ Mà thân thì dựng ngược/ Như gậy gộc nghĩa quân”. Anh gọi ra cái bản chất cốt tuỷ của xương rồng:
            Mọc lên từ cát lửa
            Hồn vẫn xanh mát trong
            Che chở người lương thiện
            Trộm cướp đều ngại ngùng
            ... Hay xương người nghĩa khí
            Ngã xuống rồi hoá thân?
Anh nhờ cây dứa dạy cho anh “cách chắt lọc từ khô cằn sỏi đá/ Chắt mật mát lành dịu nắng lửa trăm cơn” để giúp anh:
            ... từ cuộc sống gian lao, bất trắc khôn lường
            Tôi vẫn viết được
            Dâng tặng đời
            Những trang văn đầy ắp mật.
Sử dụng cách hư cấu chi tiết của văn xuôi, anh viết bài thơ “Cây mận Vĩnh Linh” rất lạ. Có một người vợ sắp làm mẹ, ăn rở của chua, cắn trái mận thì bom Mỹ ném trúng giữa nhà. Khi Vĩnh Linh im tiếng súng, nơi chị ngã năm xưa sum suê một cây mận, quả trĩu cành, nhưng lạ chưa:
            Trái nào tôi cũng thấy
            Cắn giở có vết răng
Cái vết răng ấy đã ám ảnh tâm linh người chồng khôn nguôi để anh nhìn trái mận nào cũng như có vết răng cắn giở của vợ!
Trường ca cây cà”có 56 dòng thơ mà anh chia làm 6 chương, có chương chỉ có 5 dòng, chương nào cũng có chức phận, có điều để ký thác, gửi gấm tâm sự như:
            Biết khổ đấy
            Mà không ngại khổ
            Bởi đất sinh là để làm cà
            Mặc cho sâu róm đầy cành
            Rễ còn bám đất
            Còn khôn nguôi tím nguôi xanh
Anh viết một bài thơ động viên Hoàng Cầm, một bài thơ ca ngợi Văn Cao, cả hai bài đều mãnh liệt, hay ở chỗ mãnh liệt ấy.
Là người lạc quan nhưng hoàn cảnh riêng quá ngặt nghèo, có lúc anh phẫn chí. Bài thơ “Say” chẳng qua là mượn rượu đưa lời để ký thác tâm tư. Những năm 90, Phùng Quán làm một cái chòi tre trong vườn, ngoảnh mặt ra Hồ Tây, anh đặt tên là “Lầu ngắm sóng” cho oai! Bạn bè ở Hà Nội và các tỉnh xách rượu lên lầu uống với Phùng Quán:
            Chiếu rách ta ngồi
            Lắc lư thuyền sóng
            Cái giường long mộng
            Một dòng sông trăng
Phùng Quán thấy mình đang cùng Lý Bạch ôm trăng nhưng hoá ra: “Mạn thuyền vừa cúi/ râu tóc bỗng lừng/ Mắm tôm, chanh ớt/ Trăng ta vồ được/ Một mảnh ni lông”... Đau đớn chưa, hở Giời!
Từ phẫn chí đến nói ngông chỉ là gang tấc:
            Mời bác Ba Vì xích lại đây
            Ta cùng tuý luý ngắm sóng say
            ... Tôi thì làm thơ, bác làm núi
            Nhớ nhau tưới rượu xuống hồ Tây
Cái cung cách ấy, tôi không thích nhưng thông cảm. Chất thi sĩ đích thực của Phùng Quán bộc lộ rõ nhất ở bài thơ “Tạ” viết về làng Thuỷ Dương quê anh. Lần ấy Mặt trận Tổ quốc xã anh tổ chức một cuộc để nhà thơ quê hương về bái tổ, gặp gỡ bà con dân làng. Phùng Quán quỳ xuống lạy quê hương, lạy bà con cô bác rồi đọc thơ, bài “Tạ” xúc động nghẹn ngào:
            Con tạ đất làng quê
            Thấm đẫm máu bao anh hùng đã khuất
            Không ngọn cỏ nào không long lanh nước mắt
            Không lá cây nào không mặn chát gian lao.
Anh yêu nồng nàn mảnh đất của Tổ quốc đã sinh ra anh, tạ ơn những gì đã nuôi dưỡng anh thành người:
            Con tạ đất làng quê
            Manh chiếu rách con nằm
            Con tạ
            Bát cơm nghèo mẹ con ăn
            Con tạ
            Câu dân ca mẹ con hát
            Tất cả thành sữa ngọt
Sức viết, sức nghĩ và khả năng liên tưởng, ký thác mạnh mẽ của Phùng Quán còn bộc lộ trong “Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe”. Bài thơ quyết liệt khẳng định thơ chân chính bao giờ cũng đi cùng mồ hôi nước mắt của nhân dân. Và khi đã tự nguyện đi cùng nhân dân thì:
            Đã đi với nhân dân
            Thì thơ không thể khác
            Dân máu lệ khốn cùng
            Thơ chết áo đắp mặt
Có một hồi, Phùng Quán thấy mình không viết được nữa. Nhân cơ quan anh - Bộ Văn hoá có một khu đất tăng gia sản xuất ở Thái Nguyên, anh xung phong lên trông coi. Phùng Quán ở một mình trong cái lều anh tự dựng, trước mặt là con suối Linh Nham, bắt ốc dưới suối mà ăn, nuôi gà lấy trứng bồi dưỡng, trồng sắn, trồng khoai, gà và người cùng ăn, đẽo lấy guốc mộc mà đi... Vẫn không viết được, Phùng Quán khoác tay nải đựng vài bộ quần áo chàm cũ bạc, một tập thơ Cao Bá Quát một tấm ảnh nhà văn Nga Đốt-tôi-épski về lại Huế yêu thương.
Anh gặp và yêu một thiếu phụ Huế đẹp một cách kiêu sa và ý thơ lại cuồn cuộn. Tiểu thuyết tình bằng thơ 13 chương của anh đọc thật hấp dẫn và thú vị nì nó bộc lộ tài năng của một nhà văn và một nhà thơ. Thiếu phụ Huế kiều diễm và kiêu sa kia phải chăng là hình ảnh Nàng thơ mang tính ẩn dụ. Anh yêu Nàng đắm đuối nhưng Nàng đã chối từ:
            Nếu không được ngồi
            Thì tôi xin đứng
            Cùng với chổi em dựng xó nhà
            ... Em giận dữ la lên
            Đứng trong xó nhà cũng không được đứng!...
Dù bị chối từ anh vẫn yêu Nàng thơ, yêu Đất nước và anh tin khi chết đi rồi, anh lại hồi sinh...

Phùng Quán đã sống những ngày thật say mê của tuổi trẻ bồng bột và tin yêu của người lính gan dạ, hiên ngang ngoài mặt trận. Anh cũng đã được sống những phút ngất ngây khi ký 3000 cuốn tiểu thuyết Vượt Côn Đảo để gửi vào tiếp sức cho đồng bào miền Nam giữ vững lòng tin và ý chí đấu tranh, những phút phanh ngực áo đọc thơ cho công chúng nghe thâu đêm bài này đến bài khác. Phùng Quán khi quá say, quá mê đã... gặp nạn. Nghề nào cũng có tai nạn lao động nhưng nghề văn thì không được phép! Nếu không vấp váp, bây giờ trên cầu vai áo anh chắc cũng lấp lánh quân hàm đại tá. Riêng tôi nghĩ đại tá ở nước ta thì nhiều, nhưng một người mà... hai “nhà” ra nhà như Phùng Quán, e hiếm...
N.B.V

(nguồn: TCSH số 157 - 03 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.