Nhà văn Hà Khánh Linh - Ảnh: Internet
Hà Khánh Linh vừa mới cho ra mắt bạn đọc tập truyện và ký “Nụ cười Áp-xara”. Đó là một tập hợp bao gồm cả thảy sáu tiểu phẩm truyện và ký. Trong số ba tiểu phẩm ký có một bài viết dưới dạng một bức thư và hai bài kia là bút ký. Số còn lại gồm hai truyện ngắn và một truyện ký. Đây là tập truyện, ký lấy đề tài từ nước bạn Cam-pu-chia. Linh hồn của tập truyện và ký xung quanh hai chủ đề nổi bật và đáng quan tâm: lên án sự hủy diệt của bọn đao phủ Pôn Pốt và khẳng định sức mạnh của mối tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân hai nước Việt Nam - Cam-pu-chia cùng với sự đổi thay của đất nước bạn sau ngày được giải phóng khỏi ách thống trị tàn bạo của bọn diệt chủng. Với nạn diệt chủng này, bọn Pôn Pốt đã “giết chết hơn ba triệu và đày đọa hơn bốn triệu dân Cam-pu-chia lao động khổ sai trên đồng ruộng Cam-pu-chia bạt ngàn và giam hãm họ trong “cơn đói thắt ruột” với “ngày hai bữa cháo lỏng”. Và chúng cũng đã “tàn sát hàng chục vạn trí thức ở các hố chôn người tập trung, ở các nhà tù trên toàn lãnh thổ Cam-pu-chia … Hàng loạt giáo sư tiến sĩ đã chết dưới lưỡi cuốc, lưỡi búa của bọn Pôn Pốt man rợ” (Bức thư từ Xiêm Riệp). Tội ác của chúng đất không dung trời không tha. Các vụ tàn sát dã man của chúng ở Tusleng, ở Phum Tha Mây, ở Spin v.v… vẫn còn những nhân chứng và tang chứng cụ thể. Điều đó được tác giả trình bày khá rõ ràng và xúc động trong tác phẩm của mình (Bông sứ trắng, Thằng Ểnh ương). Nhưng có thể nói trong tập truyện và ký này, truyện ngắn “Nụ cười Áp-xara” là truyện nổi bật và hay hơn cả. Truyện được viết nhẹ nhàng, thánh thoát mà sâu sắc, hồn nhiên. Qua truyện, tác giả đã khẳng định được lý tưởng và niềm hy vọng tràn trề của nhân dân Cam-pu-chia do cuộc sống mới, cuộc sống cách mạng đem lại. Bằng biện pháp hư cấu nghệ thuật, “Nụ cười Áp-xara” là một hình tượng văn học khẳng định sự hồi sinh của đất nước Cam-pu-chia anh em. Và Hà Khánh Linh cũng đã giành nhiều tình cảm đặc biệt của mình cho việc miêu tả, thể hiện cuộc sống hồi sinh của nhân dân Cam-pu-chia sau ngày giải phóng. Trên đất nước mà ngày hôm qua nhà tù đã thay cho trường học, búa rìu của bọn Pôn Pốt đã thay cho công lý, tự do; sự tiêu điều, đổ nát và bất hạnh đã thay cho niềm vui và niềm hy vọng… thì ngày hôm nay, các em bé, líu lo cắp sách đến trường, người công dân đang sung sướng được làm chủ non sông đất nước. Tự tay mình, họ đã cầm lá phiếu bầu cử quốc hội để xây dựng một chính quyền dân chủ nhân dân hợp hiến. Đâu đâu cũng tràn ngập tiếng cười, thể hiện một cuộc sống hồi sinh trở lại (Bức thư từ Xiêm Riệp). Nhiều nhà máy trước đây bị đóng cửa với vẻ tiêu điều, xơ xác nay lại được khôi phục và hoạt động trở lại như Nhà máy dệt Sisôvát ở Phnôm-pênh. Ở đó người công nhân bình thường như chị Xóc-sa-rươn đã đem hết nhiệt tình của mình để xây dựng lại cuộc sống. Họ đã tự mình quản lý lấy tất cả những hoạt động của nhà máy một cách phấn khởi và tự tin (Bông sứ trắng). Ở nông thôn, cuộc sống cũng có nhiều đổi thay đáng kể. Những làng xóm trên bờ sông Xiêm Riệp xuất hiện cuộc sống náo nức, tưng bừng xóm bên kia sông)… Đó là những thực tế sinh động của sự đổi mới trên đất nước Cam-pu-chia sau mấy năm giải phóng. Ngòi bút của Hà Khánh Linh đã ghi nhận được và chuyển đến cho chúng ta niềm hân hoan và niềm hy vọng của cả một dân tộc mà bấy lâu nay chúng ta đang tin yêu và đang từng ngày quan tâm theo dõi. Đó là những thành công của tác giả tập truyện và ký này. Và qua tác phẩm người ta cũng thấy tác giả có sở trường về truyện ngắn hơn là về ký. Truyện của chị viết mạch lạc, có những đoạn dẫn dắt khá uyển chuyển, nội tâm, tính cách nhân vật được bộc lộ khá rõ (Nụ cười Áp-xara). Các tình tiết trong truyện tuy chưa thật hấp dẫn, lôi cuốn nhưng cũng đã thể hiện được những nét dí dỏm, xúc động (Thằng Ểnh ương). Nhưng các bài ký của chị thì mới dừng lại ở mức độ “làng nhàng”, lắm chỗ còn rườm rà và trùng lặp. Cách dẫn dắt về của tác giả còn quá dài dòng. Chẳng hạn, trong “Bông sứ trắng” (bút ký) giữa sự chết chóc, chị cho xuất hiện một bông sứ trắng. Nếu biết dừng lại đúng lúc và miêu tả vừa phải thì rất hay. Nó thể hiện một tương lai, một hy vọng tốt đẹp của đất nước Chùa Tháp. Nhưng chị lại kéo dài nó một cách tản mạn. Từ bông sứ trắng đó, chị liên tưởng đến các loại sứ, rồi nói đến công dụng của các loại sứ, tên khoa học của loại sứ là gì. Và từ bông sứ chịu nắng, chịu mưa, chị bắt sang chuyện cấy cày, trồng lúa khi mùa mưa đến! Cũng từ đó, chị lại kể về công tác thủy lợi từ đời vua Giata Vácman II đến đời vua Giata Vácman VII, rồi chuyện Thái Lan xa xưa đã sang xâm lược Cam-pu-chia để cướp vàng ngọc và bắt dân Khơme về làm nô lệ v.v… và v.v… Những đoạn dài dòng và không cần thiết như vậy làm cho người đọc sốt ruột và tiếc công của chị. Đáng lẽ chị cắt đi bớt thì số trang của cuốn sách tuy có giảm bớt về độ dày nhưng “trọng lượng”, “sức nặng” trong tác phẩm của chị lại được tăng lên và sẽ gây cho người đọc sự thích thú và những ấn tượng tốt đẹp. Tóm lại, với tập truyện và ký “Nụ cười Áp-xara”, Hà Khánh Linh đã có công góp thêm một tiếng nói, hay một “nhát xẻng” để chôn vùi chế độ thây ma Pôn Pốt và khẳng định sự vươn lên, niềm kiêu hãnh của một dân tộc đã “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Nguyễn Đình Thi). Có được như vậy chính là nhờ sức mạnh đoàn kết chiến đấu của hai dân tộc anh em Việt Nam - Cam-pu-chia tạo nên. Sự xuất hiện tác phẩm của chị như vậy ít nhiều cũng tỏ ra có sự bổ ích. 25-5-1984. T.K (10/12-84) |
NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.
NGUYỄN QUANG HÀTôi nhớ sau thời gian luyện tập miệt mài, chuẩn bị lên đường chi viện cho miền Nam, trong lúc đang nơm nớp đoán già đoán non, không biết mình sẽ vào Tây Nguyên hay đi Nam Bộ thì đại đội trưởng đi họp về báo tin vui rằng chúng tôi được tăng viện cho chiến trường Bác Đô.
LÊ HUỲNH LÂM(Đọc tập truyện ngắn “Thõng tay vào chợ” của Bạch Lê Quang, NXB Thuận Hóa, 11/2009)
LÊ VŨ(Đọc tập thơ Nháp của Ngọc Tuyết - NXB Thanh niên 2009)
NGÔ MINHÐọc lại Chiếu Dời đô, tôi bỗng giật mình trước sự vĩ đại của một quyết sách. Từng câu từng chữ trong áng văn chương bất hủ này đều thể hiện thái độ vừa quyết đoán dứt khoát với một lý lẽ vững chắc, vừa là một lời kêu gọi sự đồng thuận của triều thần với lời lẽ rất khoan hòa, mềm mỏng.
LÊ HUỲNH LÂMThơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.
KHÁNH PHƯƠNGNgay từ thuở cùng Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương viết tuyên ngôn Tượng trưng, Trần Dần đã mặc nhiên khảng khái công bố quan niệm, thơ bỏ qua những biểu hiện đơn nghĩa của sự vật, sự kiện, đời sống, mà muốn dung hợp tất cả biểu hiện hiện thực trong cõi tương hợp của cảm giác, biến nó thành không gian rộng lớn tiếp biến kỳ ảo của những biểu tượng tiềm thức. Như vậy cũng có nghĩa, nhà thơ không được quyền sao chép ngay cả những cảm xúc dễ dãi của bản thân.
NGUYỄN CƯƠNGSư Bà Thích Nữ Diệu Không (tục danh Hồ Thị Hạnh) sinh năm 1905 viên tịch năm 1997 hưởng thọ 93 tuổi. Lúc sinh thời Sư Bà trụ trì tại Chùa Hồng Ân, một ngôi chùa nữ tu nổi tiếng ở TP Huế, đã một thời là trung tâm Phật giáo ở miền Nam.
HỒNG NHU (Đọc tập “Chuyện Huế” của Hồ Đăng Thanh Ngọc - NXB Thuận Hóa 2008)
NGUYỄN ĐÔNG NHẬTĐọc xong tập sách do họa sĩ Phan Ngọc Minh đưa mượn vào đầu tháng 6.2009(*), chợt nghĩ: Hẳn, đã và sẽ còn có nhiều bài viết về tác phẩm này.
NGUYỄN HỮU QUÝ (Mấy cảm nhận khi đọc Chết như thế nào của Nguyên Tường - NXB Thuận Hóa, 2009) Tôi mượn thuật ngữ chuyên ngành y học (Chăm sóc làm dịu=Palliative Care) để đặt tít cho bài viết của mình bởi Phạm Nguyên Tường là một bác sĩ điều trị bệnh ung thư. Tuy rằng, nhiều người biết đến cái tên Phạm Nguyên Tường với tư cách là nhà thơ trẻ, Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế hơn là một Phạm Nguyên Tường đang bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa.
LÊ THỊ HƯỜNGTìm trong trang viết là tập tiểu luận - phê bình thứ 3 của Hồ Thế Hà. Sau những ngày tháng miệt mài “Thức cùng trang văn” (viết chung với Lê Xuân Việt, được giải thưởng Cố đô 1993 - 1997), Hồ Thế Hà lại cần mẫn “tìm trong trang viết” như một trăn trở đầy trách nhiệm với nghề.
MAI VĂN HOANNguyễn Công Trứ từng làm tham tụng bộ lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Đương thời ông đã nổi tiếng là một vị tướng tài ba, một nhà Doanh điền kiệt xuất. Thế nhưng khi nói về mình ông chỉ tự hào có hai điều: Thứ nhất không ai "ngất ngưỡng" bằng ông; thứ hai không ai "đa tình" như ông. Nguyễn Công Trứ "ngất ngưỡng" đến mức "bụt cũng phải nực cười" vì đi vào chùa vẫn mang theo các cô đào.
SICOLE MOZETBà Nicole Mozet, giáo sư trường Paris VII, chuyên gia về Balzac và là người điều hành chính của các hội thảo về Balzac đã làm một loạt bài nói chuyện ở trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội, trường Đại học sư phạm Hà Nội, Nhà xuất bản thế giới... Chúng tôi trích dịch một đoạn ngắn trong bản thảo một bài nói chuyện rất hay của bà. Lúc nói bà đã phát triển những ý sau đây dưới đầu đề: Thời gian và tiền bạc trong Eugénie Grandet, và đã gợi cho người nghe nhiều suy nghĩ về tác phẩm của Batzac, cả về một số tác phẩm của thế kỉ XX.
CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...
NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.
TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.
Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.
ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!