Đọc “Lục bát bồng bềnh”

15:11 21/07/2009
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

Nhà thơ Lê Ngã Lễ (Ảnh: voque.org)

Gồm một phần các loại ngôn ngữ ấy, hoặc trộn lẫn chúng với nhau, cọng thêm với hư vô, bội lý, mộng thực, ẩn mật, hoang vu, dặt dìu, đa tầng đa nghĩa... là ngôn ngữ của thi ca.

Và, thi ca vốn quý phái, sang trọng; nó chắt lọc tinh tuý của ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật; chắt lọc chất hồn, chất tâm, chất tình... để làm nên thế giới kiến trúc thượng tầng của mỹ học. Do vậy, thi ca bao giờ cũng riêng tư, thầm mật. Là hơi thở của đá. Là niềm đau của cát. Là sự xao xuyến của mây trời. Là sự thao thức của trăng sao. Là sự tĩnh lắng của cô phong kiêu hãnh. Ngôn ngữ của thi ca luôn là cái gì chưa nói hết; nó có khoảng trống, khoảng lặng, khoảng chìm, mà, phần hiển ngữ chỉ là tảng băng nổi luôn giấu kín phần ẩn ngữ dưới đáy đại dương.

Quả thật, tôi không rõ lắm những điều ấy.

Đọc “Lục bát bồng bềnh” của Lê Ngã Lễ, tôi không đọc bằng trí đọc bằng tâm; đôi khi phải đọc giữa hai hàng chữ. Thỉnh thoảng, tôi thả hồn giữa khoảng lặng để lắng nghe ngữ điệu âm thanh cùng sự va động của lòng mình. Nhờ đọc như vậy, tôi nghe được những câu thơ hay và rất hay.

Có những câu khá mới mẻ trong việc tìm kiếm hình tượng nghệ thuật: “Tình yêu theo vết lăn tròn, cuộc đời mấy tuổi mình còn lăn theo”. Rất thân phận, rất cụ thể với ước mơ hiu hắt, vừa vô vọng, vừa hy vọng giữa đời: “Giá như vá được phận người, thì hoa kết nụ bên đời chờ xuân”. Hoặc, có cái gì đó rất hư vô ở cuối chân trời: “Bóng dài đọng vết chân chim, thả từng cọng nắng đi tìm hoang sơ”.

Dường như định mệnh của Nhà Thơ là sự ra đi miên viễn, là kẻ luôn trên đường tìm kiếm, mà, mỗi người, một cuộc tìm kiếm chân dung ảo, chân dung ước lệ của riêng mình. Ai cũng bị đày ải, sự đày - ải - tự - nguyện, mà, niềm vui hay nỗi buồn, hy vọng hay tuyệt vọng đều tuyệt vời và bi tráng như nhau. Giống loài được gọi là thi nhân ấy họ không có quê hương đích thực. Trần gian chỉ là cõi tạm. Mọi cuộc tình dù đẹp, dù đau, nụ cười nước mắt khổ lạc hay bi hoan chỉ là cái cớ để nương - nhờ - ký - gởi, làm cho đôi cánh thơ tang bồng, phiêu hốt vào chốn ước mơ khinh linh vô trụ xứ. Trên cõi về ấy, dẫu là “Lục bát bồng bênh”, Nhà Thơ của chúng ta vẫn có một không gian tâm linh để trực thức:

“Chợt nghe hơi thở cội nguồn, mà sao xao xuyến con đường đi hoang”.
Đôi khi là để đối diện với cái gì không tên gọi, lớn rộng quá:

“Lặng yên giữa cõi vô biên, khoảng không in dấu triền miên bến bờ”. Rồi thảng thốt, ngạc nhiên gọi lên: “Bỗng nghe tiếng gọi ngẩn ngơ, chào nhau một tiếng giữa bờ tầng không”.

Cánh Thơ đã vỗ. Sơn hà, trăng sao, sum la vạn tượng dưới cánh lướt phù du, nhẹ nhàng, chưa mỏi. Hồn thơ của Lễ còn đi xa, đẹp, và lôi cuốn ở chỗ vô tăm tích, chỗ ý tại ngôn ngoại. Ôi! Vậy là quá tốt rồi. Nếu anh chịu khó dụng công hơn, kỹ thuật hơn; nhặt ra vài sạn sỏi, cỏ rác đìu hiu... như “Ngâm vào cuộc sống men ngân một thời”; nhảy cà tưng điệu múa chiều gió no”, “lúa vàng trĩu hạt mải chưa về”... thì “Lục bát bồng bềnh” sẽ mềm mại và dễ thương biết chừng nào.

Là tu sĩ, làm thơ nghiệp dư, không một kiến thức chuyên môn mà giới thiệu một tập thơ của một Nhà giáo Thi sĩ... là một việc làm quá sức mình. Tôi chỉ nghe cảm nhận rứa thôi. Không - gian - thơ của “Lục bát bồng bềnh” còn lớn rộng hơn thế nhiều, xin trân trọng mời chư quân thưởng lãm.

Núi Hòn Vượn, Am Mây Tía - Thu 2003
M.Đ.T.T.A
(181/03-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Tháng 9 vừa qua, tại Huế, người cháu ruột gọi Bà Hoàng Thị Kim Cúc bằng Cô là Hoàng Thị Quỳnh Hoa đã xuất bản và giới thiệu cuốn “LÁ TRÚC CHE NGANG - CHUYỆN TÌNH CỦA CÔ TÔI”. Cuốn sách đã trưng dẫn ra nhiều tư liệu trung thực về sự thật chuyện tình giữa Hàn Mặc tử và Hoàng Thị Kim Cúc mà lâu nay trên văn đàn có nhiều thêu dệt khác nhau.

  • Họ tên: Dương Thị Khánh
    Năm sinh: 1944
    Quê quán: Thừa Thiên Huế
    Hiện ở: 71 đường 3 tháng 2, thành phố Đà Lạt

  • HỒ LIỄU

    Trần Thị NgH [bút danh khác là Thọ Diên] tên thật là Trần Thị Nguyệt Hồng, sinh 18/4/1949 tại An Xuyên, Cà Mau. Năm mười tuổi bắt đầu đọc thơ. Bắt đầu viết văn từ năm 1968.

  • LTS: Nhân kỷ niệm 15 năm ngày mất của thi sĩ Bùi Giáng (17/12/1926 - 7/10/1998), sáng 14/9 tại Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM đã diễn ra buổi tọa đàm khoa học, thu hút 25 tham luận của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu và khoảng 400 người đến dự.

  • CHINGHIZ AIMATỐP

    Dưới đây cuộc trao đổi ý kiến giữa Irina Risina, phóng viên báo Litêraturnaia Gazeta với nhà văn Ch. Aimatốp ít lâu sau Đại hội lần thứ 8 của các nhà văn Liên Xô.

  • BÙI VIỆT THẮNG 

    (Đọc Thuyền trăng - Tập thơ của Hồ Thế Hà, Nxb. Văn học, 2013)

  • TRẦN THÙY MAI

    Tôi biết chị Võ Ngọc Lan từ khi còn làm việc ở Nxb. Thuận Hóa, lúc đó tôi được giao biên tập cuốn Niệm khúc cho mưa Huế của chị.

  • YẾN THANH

    Năm nào đó, hình như tôi đã trồng ở đây một cây ưu tình, cây đã ra hoa lẫn vào màu xanh ngõ vắng, và đã dẫn tôi đến một miền trắng xóa như một giấc mơ đổ vỡ bên trời.
    (Ngõ Huế - Hạ Nguyên)

  • TRUNG SƠN

    100 NĂM NGÀY SINH BÁC SĨ NGUYỄN KHẮC VIỆN (1913 - 2013)

  • Các tạp chí văn nghệ ở các địa phương trong những năm qua đã đóng góp rất nhiều vào dòng chảy văn học Việt Nam. Đó là nơi góp sức hình thành tên tuổi của nhiều tác giả, tác phẩm từ các địa phương trước khi soi vào gương mặt chung của nền văn học nước nhà, là nơi giữ gìn bản sắc văn hóa văn nghệ của mỗi vùng đất, là nơi khởi thủy của những khuynh hướng sáng tạo mới...

  • NINH GIANG THU CÚC

    Tôi đọc Tim Tím Huế của Bùi Kim Chi bằng tâm trạng, và tâm cảm mình là một kẻ đang được dự phần trong cuộc hành hương về vùng trời hạnh phúc, về thiên đường của tuổi măng tơ, về lứa tuổi mà ai đó đã rất tự hào và trân quý khi họ viết.

  • NINH GIANG THU CÚC

    Tôi đọc Tim Tím Huế của Bùi Kim Chi bằng tâm trạng, và tâm cảm mình là một kẻ đang được dự phần trong cuộc hành hương về vùng trời hạnh phúc, về thiên đường của tuổi măng tơ, về lứa tuổi mà ai đó đã rất tự hào và trân quý khi họ viết.

  • THÁI KIM LAN

    Đầu năm 1999, nhà Văn hóa Thế giới ở Berlin gửi xuống Muenchen cho tôi ngót chục bài thơ, nhờ chuyển ngữ sang tiếng Đức cho tuần lễ văn hóa Việt Nam tại Berlin vào cuối tháng 3 năm ấy. Như thường lệ không đắn đo, tôi sốt sắng nhận lời.

  • LÊ MINH PHONG

    Đừng đặt tên cho họ…
    Có thể họ còn vô vàn những cuộc phiêu lưu khác nữa.

                               (Robbe - Grillet)

  • PHAN TRẦN THANH TÚ

    “Chính anh là người đã nhẫn tâm với bản thân mình khi tôn thờ chỉ có một điều duy nhất” (Đoản khúc số 97)

  • KỶ NIỆM 123 NĂM NGÀY SINH CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

    TRẦN HIẾU ĐỨC

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG 

    Chữ Quốc Ngữ (Q.N) viết theo dạng 24 chữ cái ABC xuất xứ từ các Thầy Dòng truyền giáo Tây Phương mang vào nước ta, cho đến nay gọi là được phổ biến trên dưới trăm năm, gói gọn vào thế kỷ 20.

  • THỤY KHỞI

    Lần hồi qua những trang thơ Lê Vĩnh Thái mới thấy chất liệu thơ từ Ký ức xanh (2004), Ngày không nhớ (2010) cho đến nay Trôi cùng đám cỏ rẽ(*) (2012) hẳn là sự hối hả của dòng chảy ký ức miệt mài băng qua những ghềnh thác thời gian, mà ở độ tuổi của anh có thể bị ăn mòn.

  • Hoàng Minh Tường

    Nhà văn, nhà báo Lê Khắc Hoan xuất hiện và gây ấn tượng trên văn đàn khá sớm: Năm 1959, khi đang là giáo viên trường Hoằng Thắng, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa, Lê Khắc Hoan đã có truyện ngắn đầu tay Đôi rắn thần trong hang Pa Kham đoạt giải Khuyến khích báo Thống Nhất (Nguyễn Quang Sáng giải Nhất với truyện ngắn Ông Năm Hạng).

  • LÊ HUỲNH LÂM  

    Khi thơ như một tấm gương phản chiếu tâm hồn của tác giả, phản ánh nhận thức của người sáng tạo với cuộc sống quanh mình, chiếc bóng trong tấm gương ấy là một phần của sự thật. Đôi khi sự thật cũng chưa được diễn đạt trọn vẹn bằng ngôn ngữ của nhà thơ.