Đọc “Hoa nắng hoa mưa”

14:45 25/08/2009
PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

Nhà thơ Hà Huy Hoàng - Ảnh: thinhanquangngai.wordpress.com

Thông thường, những tác giả trẻ khi in tác phẩm thường kèm theo lời giới thiệu, lời tựa của những người đã thành danh, coi như một sự giới thiệu, một giấy “thông hành” gia nhập văn đàn. Nhưng với Hà Huy Hoàng, lần này anh tự viết Thay lời tựa cho mình và tự nhận cho mình chỉ là thứ Tập tàng rau quê:
                        Tập tàng ơi rau tập tàng
                        Bạn cùng nghèo khó, đất làng, bờ ao
                        Vui cùng giun dế trăng sao
                        Dám đâu vênh mặt làm cao với đời

                        Tập tàng là tập tàng ơi
                        Trước sau vẫn cứ thiệt lời ruột gan
                        (Thấp - thường - nhưng - chẳng - dối - gian)
                        Thơ ta như thể tập tàng rau quê

Hơn sáu mươi bài thơ in trong tập Hoa nắng hoa mưa chủ yếu là tình cảm, cảm xúc của anh về những người thân, người mẹ, người bạn, người em (Mẹ với thơ con, Chùm thơ tặng mẹ, Lời ru của mẹ, Khóc mẹ, Lục bát giữa Sài Gòn, Ước, Nhớ bạn, Qua bến Tam Thương nhớ người năm cũ, Dự tiệc cùng Lan ở vườn hồng - nhớ bạn...), về những sự vật gần gũi trong đời sống hàng ngày ở làng quê, phố thị (Trăng, Hoa không tên, Mỗi mùa hoa, Hoa nắng hoa mưa, Bờ). Nhưng dù gửi cảm xúc của mình vào đâu, vào thời gian, không gian nào, vào một Bsông vẫn gió, Như tiết trời đông, Quán xưa, Vườn xưa... an mai xanh hoặc một Chiều đông sắc lạnh như dao, về một lần “Bồi hồi qua bến Tam Thương” hoặc trong hoàn cảnh tha hương kiếm sống “Con đang lưu lạc phương trời - Đêm quê người, chợt rối bời âm u” anh cũng hướng về làng quê miền Trung, về Quảng Ngãi, nơi anh được sinh ra và lớn lên, nơi có những người dân quê bình dị lay động tâm hồn anh, tạo nên niềm hữu thức trong anh mãi khôn nguôi. Đó có thể là Cô lái đò trên sông Trà, là Nghĩ về cây và những người chơi cây kiểng, hoặc là lời thơ Gửi em ở chốn thị thành...

Thơ là tiếng nói của tình cảm, của tri âm tri kỷ, là những giọt lửa của tình yêu làm rát bỏng tâm hồn. Do vậy, không phải đọc thơ bằng mắt và lý giải, chứng minh bằng lý lẽ, mà phải cảm nhận bằng tâm hồn. Hình tượng thơ không phải bao giờ cũng hiện ra cụ thể, mang tính tạo hình, mà là thế giới trừu tượng, là khách thể tinh thần khó xác định, phải được hình dung qua hệ thống văn bản, qua lớp vỏ ngữ âm của ngôn từ. Hà Huy Hoàng không giỏi trau chuốt về ngôn từ. Nhưng anh đầy ắp cảm xúc đằng sau lớp ngôn từ mộc mạc, đôi khi đến mức thật thà. Đó chính là ưu điểm và cũng là nhược điểm của thơ anh.Tiếng nói tình cảm của anh cháy bỏng từ cuộc sống đời thường, được anh thắp lên từ chính tiếng nói của đời sống, tạo nên hình tượng thơ sống động. Nhưng đôi khi, ở một vài chỗ thiếu sự mượt mà và sâu sắc cần thiết. Chính vì thế, trong bài Khúc ru... mẹ Thanh Thảo đã nhận xét về bài Thương mẹ của Hà Huy Hoàng rằng: “... Câu thơ thật dễ, mà viết ra được cũng thật khó, vì thế nó cảm động. “(Đặc sanVăn nghệ Quảng Ngãi, số 4 và 5, 1999).

Điểm mạnh của thơ Hà Huy Hoàng, đó chính là nhịp điệu. Anh đã phổ vào câu thơ hơi thở ấm nóng nhịp điệu đời sống và định vị tương xứng trong việc tạo dựng hình tượng thơ sống động. Do vậy, anh ít nhiều có sở trường về thơ lục bát, thể thơ Việt truyền thống. Chiếm gần nửa tập thơ, 31 bài, được tác giả luồn kim nối chỉ bằng thể thơ lục bát, để tạo nên màu hoa của mưa nắng quê nhà:
                        Ngủ đi em - giấc ngoan hiền
                        Quên đi bao nỗi ưu phiền xót xa
                        Một thời con gái kiêu sa
                        Giờ lo chạy gạo... dưa cà cùng anh!
                        Ngủ ngoan em - giấc mộng lành
                        Tình yêu chợt hoá anh thành khúc ru
                        Ngọt ngào hương gió mùa thu
                        Xua tan bức nóng, sương mù quẩn quanh...
                        Em - là - Xuân - của - lòng - anh
                        Ta ươm giống ngọt quả lành cho nhau!
                                                           
(Ru em)

Nhiều khổ thơ hay, ngôn từ đẹp, thể hiện được mạch cảm xúc mạnh mẽ, giàu hình tượng mà rất kiệm lời:
                        Em - giờ cách trở xa xôi
                        Nhớ thương buốt lạnh chỗ ngồi ngày xưa
                        Nhạt nhoà hoa nắng lưa thưa...
                        Vắng em, anh bỗng thấy thừa cả anh!
                                                           
(Hoa nắng hoa mưa)

Cố nhiên, Hoa nắng hoa mưa không thể tránh khỏi một vài nhược điểm như vẫn còn rơi rớt những cảm xúc dễ dãi, một vài bài thiếu sự hàm súc cô đọng hoặc đôi khi giọng điệu chưa thật trau chuốt cẩn thận như đã nói. Nhưng không thể đòi hỏi tất cả mọi điều đối với một tác phẩm văn học, nhất là tác phẩm của một người viết trẻ. Người đọc có thể hình dung được rằng, với sức cảm, sức nghĩ mạnh mẽ như Hà Huy Hoàng, nếu anh vẫn giữ nhiệt huyết lâu bền đi với thơ ca, ắt sẽ có những thành công mới trong tương lai.

P.P.P
(185/07-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LƯƠNG AN

    Như chúng ta biết, từ lâu rồi mối tình bạn giữa Miên Thẩm và Cao Bá Quát đã được xem như một quan hệ ít có, từ tri ngộ văn chương mà vượt lên sự cách biệt của hai tầng lớp xã hội, sự rẽ đôi của hai khuynh hướng tư tưởng và hai đường đời.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    (Đọc tập thơ Mật ngôn của Lê Huỳnh Lâm, Nxb Văn học, 2012)

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Nhất Lâm tuổi Bính Tý (1936), năm nay đã 76 tuổi, xếp vào hàng “xưa nay hiếm”, nhưng mãi đến nay anh mới đến được Suối tiên tắm (Nxb Văn học, 2012).

  • TRẦN VĂN KHÊ

    Tôi quen biết Thái Kim Lan cũng đã gần 40 năm nay, một thời gian dài thấm đẫm nhiều kỷ niệm ở đủ mọi phương diện: công việc, thưởng thức nghệ thuật và cả… chuyện đời.

  • VŨ NGỌC PHAN
              Trích hồi ký

    ... Tôi viết Nhà Văn Hiện Đại từ tháng 12-1938 đến cuối tháng giêng 1940 thì xong lượt đầu, tất cả 1650 trang trên giấy học trò.

  • HỒ THẾ HÀ

    “Người đẹp vẫn thường hay chết yểu
    Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai!”

                             J.Leiba

  • HỒNG NHU

    (Đọc Vùng sâu - tiểu thuyết của Tô Nhuận Vỹ - Nxb Hội Nhà văn 1-2012)

  • NGÔ MINH

    Sau gần một năm chuẩn bị, sưu tầm tài liệu, lo “chạy” kinh phí, đến giữa tháng 6-2012, Hải Kỳ tuyển tập(*) đã ra mắt độc giả. Tuyển tập dày 596 trang do nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo vẽ bìa rất bắt mắt.

  • ĐẶNG TIẾN

    Kỷ niệm 3 năm ngày mất nhà thơ Tế Hanh (16.7.2009 - 16.7.2012)

  • PHẠM TUẤN KHÁNH - VŨ THANH

    Trong văn học Việt Nam thế kỷ XIX có một nhà thơ được "thần siêu" coi là "bạn băng tuyết" và được văn nhân Trung Quốc đương thời gọi là "thi hào" - Đó là Đặng Huy Trứ. Sự nghiệp chính trị và văn học của ông vào giai đoạn đó khá nổi tiếng và được đề cao nhưng đến nay vẫn ít người biết đến.

  • NGUYỄN ĐÌNH NIÊN

    (Trích từ “Kinh nghiệm về thân phận làm người trong thơ Hàn Mạc Tử”, Nxb. Southeast Asian Culture and Education (SEACAEF) 2009).

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Mỗi người bước vào cõi thơ ắt hẳn sẽ để lại dấu ấn bằng mỗi phương cách khác nhau. Có người đi vào thơ ca qua những cuộc chiến, có người dùng chính đôi bàn chân mình, hay đôi tay mình, cũng có người bước vào thơ bằng chiếc xe đạp hay xe gắn máy,… nhưng tất cả đều đến với thi ca bằng trái tim.

  • Giải thưởng Nhà nước ra đời từ năm 1996. Đến nay Huế đã có 8 người nhận được giải thưởng danh giá này. Ngoài các nhà văn Thanh Hải, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lâm Thị Mỹ Dạ; Tổng Biên tập đầu tiên của Sông Hương - nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng đã nhận Giải thưởng Nhà nước.

  • PHAN NGỌC THU

    Từ sau năm 1975, văn học nước ta nói chung, văn xuôi nói riêng đã có nhiều chuyển biến trong cách tiếp cận với đời sống và ngày càng có xu hướng quan tâm hơn đến những vấn đề thuộc về chiều sâu của giá trị con người.

  • LÊ HUỲNH LÂM 
    (Đọc tập thơ “Những con chim của bóng tối” của Phạm Tấn Hầu - Nxb Văn học 6/2011) 

    Tôi một mình, lũ pharixêu múa rối
    Sống đến tận cùng, đâu phải chuyện chơi.

                            Bôrix Patecnax

  • MAI VĂN HOAN

    Trần Nhân Tông sinh năm 1258, lên ngôi năm 1279. Vừa mới lên ngôi, chàng trai 21 tuổi đã phải đối mặt với âm mưu thôn tính nước ta lần thứ hai của giặc Nguyên Mông.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY  

    Trong nhiều tư cách, lãnh tụ Hồ Chí Minh còn được vinh danh là một triết gia. Hơn thế nữa, là “triết gia vĩ đại” như đánh giá của một học giả nước ngoài qua Hội thảo Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay vào tháng 5/2010.

  • TRÀNG DƯƠNG

    (Ðọc Phù Hoa, truyện thơ Văn Cát Tiên - Nxb Văn Học, 2011)

  • NGUYÊN SA(*)

    Từ những ngày còn theo học triết lý tại đại học Sorbonne tôi đã mơ hồ nghĩ mỗi dân tộc bao giờ cũng có một nền triết học riêng. Bởi vì, triết học, trên mọi bình diện nào đó, rút lại, chính là ý thức được hệ thống hóa và thuần túy hóa, là một tổng hợp nhân sinh quan và vũ trụ quan.

  • Có lẽ nếu không có bài thơ "Đây thôn Vỹ Giạ" thì vùng đất xinh xắn kia cũng không nhiều tao nhân mặc khách ghé thăm đến vậy. Nhắc đến bài thơ này người ta sẽ nhớ ngay đến một mối tình điển hình cho sự nuối tiếc bâng khuâng và dường như nó là phông nền của cái đẹp. Bây giờ người thiếu nữ áo trắng xưa vẫn được sương khói của thôn Vỹ giăng phủ khiến bài thơ bản mệnh của Hàn thi sĩ vẫn miên man trong tâm thức của nhiều thế hệ yêu thơ.