TRẦN THÙY MAI
Tôi biết chị Võ Ngọc Lan từ khi còn làm việc ở Nxb. Thuận Hóa, lúc đó tôi được giao biên tập cuốn Niệm khúc cho mưa Huế của chị.
Ảnh: internet
Niệm khúc cho mưa Huế là tập tản văn đầu tiên của chị Lan, giọng văn nhẹ nhàng, sâu lắng, đặc biệt tình yêu và nỗi nhớ với quê hương Huế thì rất tha thiết và chân thành. Vì vậy tập văn này đã gây cho tôi nhiều ấn tượng. Tuy vậy, lúc đó tôi chưa biết gì nhiều về tác giả ngoài việc chị là một phụ nữ Huế xinh đẹp, đa tài, tuy đi xa nhưng lòng vẫn luôn hướng về quê mẹ.
Cách đây hơn một năm, khi đọc tiếp bản thảo văn xuôi thứ hai của chị, cuốn tiểu thuyết Treo tình trên sóng, tôi mới thực sự ngạc nhiên. Vẫn giọng văn hiền hậu từ tốn đầy chất Huế, nhưng với tác phẩm mới này, chị đã thực sự vươn tới một bút lực mới. Cũng từ khởi điểm là Huế, chị đã viết nên một câu chuyện về đời người, một câu chuyện bộn bề, sôi động, đầy nỗi niềm, chứa chất nhiều khổ đau cay đắng nhưng cũng đem đến cho ta lòng can đảm và niềm hy vọng.
Rất ngạc nhiên với bản thảo mà tôi có cảm tưởng như chị Lan đã rút ruột ra để viết, đồng thời tôi cũng rất lo lắng vì thấy trong tác phẩm có một vài chi tiết có thể gây khó khăn trong việc xin phép xuất bản. Quả nhiên như vậy, việc xin giấy phép không được mau mắn dễ dàng như trước kia với Niệm khúc cho mưa Huế. Cuối cùng thì bản thảo cũng phải đi qua hai nhà xuất bản trước khi được Nxb. Hội Nhà văn cấp phép và trang web của Hội Nhà văn giới thiệu.
Lúc đầu, Treo tình trên sóng (TTTS) được in một ngàn cuốn, mới sau ba tháng đã bán hết. Bản mà tác giả giới thiệu ở Huế là bản in lần thứ hai. Nguyên do vì đâu mà phát hành sách lại có thể bán nhanh một cuốn sách vói giọng văn rất giản dị, chân phương, không có dòng nào được gọi là nóng bỏng theo kiểu thường nói bây giờ, nghĩa là không có những thủ thuật câu khách như tình dục hoặc bạo lực… như vậy? Có lẽ mỗi độc giả mua và đọc vì một lý do khác nhau, không ai giống ai. Riêng tôi, xin trình bày những điểm làm tôi cảm thấy thú vị về cuốn sách này.
TTTS là tiểu thuyết xoay quanh cuộc đời của nhân vật Duyên. Duyên là một cô gái Huế lớn lên ở đất Kim Long thơ mộng. Bởi thế, TTTS trước hết là một câu chuyện rất Huế. Những chương đầu của truyện bàng bạc một bầu không khí của Huế xưa, một xứ Huế nhỏ nhắn ngậm ngùi, cứ dễ làm lòng ta xôn xao thương cảm. Cái may mắn của Duyên trong thời thơ ấu là tuy phải chịu nghèo khổ thiếu thốn về vật chất nhưng lại được sống trong bầu không khí thương yêu hiền hòa của một gia đình trọng lễ giáo, cái lễ giáo ở đây không phải chỉ trong hoàn cảnh bình thường mà cả trong những hoàn cảnh éo le.
TTTS cũng là một câu chuyện rất Việt Nam, với những hoàn cảnh rất Việt Nam. Là con của một liệt sĩ chống Pháp, khi lớn lên, Duyên lại lấy chồng là một sĩ quan nhảy dù của quân đội miền Nam. Đến ngày giải phóng thì chồng Duyên mất tích. Ngày xưa khi còn nhỏ Duyên theo mẹ lặn lội đi tìm mộ của cha, nay lại phải đi tìm chồng từ trại này sang trại khác. Cái may của Duyên là còn được gặp lại chồng trong một trại cải tạo ở miền Bắc, để rồi mười bốn năm sau lại đoàn tụ dưới một mái nhà, và dư âm chiến tranh vẫn còn tiếp tục ngay trên chiếc giường riêng tư của hai vợ chồng.
Chồng đi cải tạo gần hết thời thiếu phụ, một mình phải nuôi một đàn con dại và cả mẹ ruột, lẫn mẹ chồng; mất địa vị, mất nhà cửa, ô tô đem bỏ ngoài đường không dám nhận, cùng đàn con đẩy xe sắn mì đi bán rong dưới cái nắng Sài Gòn gay gắt... Duyên đã từng bước lên khỏi đáy vực, lo cho con no đủ, báo hiếu cho mẹ và mẹ chồng, thăm nuôi chồng chu đáo trong suốt mười bốn năm cải tạo. Tôi chắc rằng ít nhất có hàng ngàn phụ nữ cùng cảnh ngộ với Duyên những ngày ấy sẽ rơi lệ khi nhìn thấy chính mình trong hình ảnh Duyên phải lăn lộn giữa thị trường chợ đen, phải đối đầu với một bên là sự lường đảo, lưu manh, một bên là thành kiến hẹp hòi, đã chịu mất mát nhưng rồi đã trưởng thành trong mất mát.
Câu chuyện của Duyên cũng là một câu chuyện rất phụ nữ. Từ lúc vừa lọt lòng, Duyên đã hứng chịu sự bất công của thân phận đàn bà: Nhà Duyên hiếm muộn, cả nhà trông đợi một đứa con trai nên Duyên ra đời đã làm ông bà thất vọng! Lấy chồng, Duyên lại gặp người chồng đào hoa, đèo bòng hết cô vợ bé này đến cô vợ bé khác. Duyên cũng ghen tuông, đau khổ, nhưng rồi nỗi khổ của Duyên dần dần đã chai lì trước cố tật trăng hoa khó chữa của chồng. Rồi lại đến ngày các cô vợ bé lần lượt bị ông chồng bỏ rơi để chạy theo nhân tình mới. Duyên không oán thù họ, mà lại còn giúp đỡ cho những người đàn bà lỡ bước ấy làm lại cuộc đời. Duyên nhận nuôi nấng, nâng đỡ những đứa con rơi vô tội. Sở dĩ như vậy vì Duyên ý thức được sâu sắc những thiệt thòi cay đắng của thân phận đàn bà, nên đã đem tấm lòng bao dung đối đãi với những người đã từng gây cho mình nỗi đau.
Treo tình trên sóng là một câu chuyện của lòng nhân hậu. Đọc truyện ta cảm động bởi những con người hiền hòa, cao thượng, những mẫu người sinh ra từ một nền văn hóa lễ giáo. Một người mẹ như mẹ Duyên, một nắng hai sương chỉ biết lam lũ vì chồng, vì con; Một người đàn ông như ông Bửu Huân bố dượng Duyên, với tính cách đàng hoàng quân tử đúng theo nề nếp người xưa: trước ngày đến cưới mẹ Duyên, ông không quên lên mộ ông bà nội Duyên thắp nhang xin cho mẹ Duyên tái giá; Đối với các con gái của vợ, ông xử sự ý tứ, mỗi khi đi đâu về không thấy vợ trong nhà mà chỉ có hai con của vợ ngồi học bài, ông lại đi vòng sang nhà hàng xóm ngồi uống trà nói chuyện, chờ khi vợ về mới trở lại. Con gái đầu của vợ, ông nhận làm con, khai theo họ hoàng phái là Công Tằng Tôn Nữ, nhưng với con út là Duyên thì ông bắt giữ nguyên họ Võ, vì ông nghĩ họ Võ cũng phải có một người gánh hương hỏa, dù là con gái, ông không muốn giành hết về mình. Cách xử sự như vậy thật nhân đức, Duyên đã lớn lên trong bầu không khí đầy tình người ấy nên đến lượt Duyên, Duyên sẵn sàng mở lòng tha thứ và chăm lo cho người chồng đã nhiều lần phản bội, cũng như dang rộng vòng tay đón những đứa con ngoại hôn của chồng, chỉ vì một ý nghĩ: chồng mình đã làm khổ họ, sao mình có thể làm khổ họ thêm được nữa.
Treo tình trên sóng cũng là câu chuyện của nghị lực vượt khó phi thường, của ý chí sinh tồn mạnh mẽ vô bờ bến. Trong những năm tháng vô cùng cay cực, Duyên đã chưa bao giờ tuyệt vọng. Điều gì đã cho Duyên sức mạnh để vượt qua cơn bão như vậy? Đấy là tình thương vô bờ bến với gia đình, với đàn con, là trách nhiệm phải vừa làm cha vừa làm mẹ. Vì sự sống Duyên đã không từ một việc gì không nhúng tay, từ việc đẩy xe đi bán rong cho đến việc đứng ra đấu thầu làm đường, từ việc sản xuất thuốc lá chui cho đến dính vào âm mưu tổ chức vượt biên… Có lúc thành công nhưng cũng có lúc trả giá đớn đau, thậm chí phải dính vòng tù tội. Trong tấm thân yết đuối và tâm hồn nhạy cảm của Duyên là một ý chí sinh tồn sắt đá mà ngay cả đàn ông cũng không bì kịp. Cần phải nói thêm là, trong những bước dò dẫm đầy mạo hiểm của Duyên, dù có lúc bị kết án là phi pháp, cũng không hề có sự gian xảo thấp hèn, mà chỉ là sự liều lĩnh tìm đường để đột phá tìm lối ra trong sự bế tắc kinh tế của một thời đã qua. Chính sự liều lĩnh đột phá của từng ý chí cá nhân ấy đã góp phần đem lại sự đột phá của toàn xã hội. Khi dĩ vãng qua đi, những gì hôm qua được xem là tội lỗi, hôm nay đã trở thành sự hiển nhiên của cuộc sống. Đọc đến những đoạn ngặt nghèo trong đời Duyên, tôi không khỏi liên tưởng đến nhân vật Scarlett O’Hara trong Cuốn theo chiều gió. Chỉ có điều đây là một Scarlett kiểu Huế, đằm thắm, hiền hòa nhưng ẩn chứa một sức sống mãnh liệt vô bờ.
Một câu chuyện rất Huế, một câu chuyện rất Việt Nam, một câu chuyện của lòng nhân hậu và nghị lực phi thường, nhưng còn hơn thế nữa, đây là một câu chuyện của tình yêu. Xen trong trang viết về những cơn sóng gió của cuộc đời, là những trang ngọt ngào nói về tình yêu, những mối tình hương hoa làm tươi mát một cuộc đời nhiều giông bão. Tình yêu làm cho Duyên có thêm nghị lực để bước đi, làm cho Duyên dù gặp muôn ngàn khó khăn vẫn không mất niềm tin ở lòng tốt của con người. Và cũng chính vì vậy mà cuốn tiểu thuyết này mới mang cái tên khá lạ lùng: Treo tình trên sóng.
17/6/2013
T.T.M
(SH294/08-13)
Trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 839 ra ngày 01-12-2013 có đăng bài Kỷ niệm về một bài thơ & một câu hỏi chưa lời giải đáp của Nguyễn Cẩm Xuyên. Vấn đề nêu lên rất thú vị: đó là cách hiểu chữ giá trong bài thơ Cảnh nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ này trong nguyên văn chữ Nôm không có tên gọi. Những người soạn giáo khoa đã căn cứ vào nội dung đặt tên cho bài thơ là Cảnh nhàn và đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường trước đây.
Ký ức về những tháng ngày mải miết hành quân trên đất Campuchia, những phút giây nén lòng nhớ về quê hương, gia đình… vẫn chưa bao giờ nhạt phai trong tâm thức những người cựu chiến binh Đoàn 367 đặc công-biệt động trong kháng chiến chống Mỹ năm xưa.
LÊ VIỄN PHƯƠNG
(Nhân đọc Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình & hiện tượng của Nguyễn Đăng Điệp, Nxb. Văn học, 2014)
Cuốn Minh triết Việt trong văn minh Đông phương của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhằm mục đích góp phần làm sáng tỏ cội nguồn văn hiến của dân tộc Việt qua sự phân tích những di sản văn hóa truyền thống bằng các phương pháp mang tính khoa học.
17 chân dung các nhà học thuật Việt Nam thế kỷ 19 và 20 qua các tiểu luận nghiên cứu ẩn dưới dạng thức tùy bút của Đỗ Lai Thúy đủ sức vẫy vào nhận thức người đọc hôm nay những vỡ lẽ mới.
Giáo sư hy vọng độc giả cũng cảm thấy như mình khi đọc "Lòng người mênh mang" bởi các trang viết chứa đựng những sự thật không thể chối cãi.
Tác giả Phạm Xuân Hiếu sử dụng vốn sống, kiến thức về văn hóa, cổ vật khi viết những truyện ngắn trong sách "Cây đèn gia bảo".
LÊ HUỲNH LÂM
Có một bạn trẻ hỏi rằng: làm thế nào để viết thật hay? Tôi nói như phản xạ, trước hết tác giả phải có đời sống văn chương.
NGỌC THANH
Có một nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng đầy nhân cách đi ra từ Huế song rất ít người ở Huế biết tới, đó là Trần Hoài Quang - nguyên Trung đoàn phó và chính trị viên Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật (E95), nguyên Phó ban Tuyên huấn Thừa Thiên, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang và Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên… Ông hiện có một người con trai đang ở Huế.
“Như vậy đó, hiện đại và hoang sơ, bí ẩn và cởi mở, giàu có và khó nghèo chen lẫn, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện lên trước mắt ta, ngồn ngộn sức sống”. Nhà báo, nhà văn Phan Quang đã thốt lên như vậy cách đây gần 40 năm, khi ông lần đầu đặt chân đến vùng đồng bằng châu thổ. Những điều ông viết về ĐBSCL ngày ấy - bây giờ còn tươi mới tính thời sự, lan tỏa và trường tồn với thời gian.
ĐẶNG HUY GIANG
Thói quen, nói cho cùng, là sản phẩm của quá khứ, là những gì lặp đi lặp lại, không dễ từ bỏ.
Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi...
BÍCH THU
(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)
Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.
Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.
Phát hành tập thơ "Khi chúng ta già" sau scandal với Phạm Hồng Phước, tác giả Nguyễn Thị Việt Hà khẳng định thơ mình không cần ăn theo sự kiện gì.
Tác giả Tử Đinh Hương thực hiện bộ sách "Biểu tượng" với mong muốn khám phá, lưu giữ và khuyến khích trẻ nhỏ quan tâm hơn đến thế giới xung quanh.
Sách được các sư cô Thiền viện Viên Chiếu lược dịch, biên soạn từ nhiều nguồn tư liệu, chủ yếu là tư liệu chữ Hán, tiếng Anh, giúp người đọc hiểu thêm con đường tu tập của pháp sư Huyền Trang.
Soạn tâm thế an nhiên khi bước vào tuổi già, nhẹ nhàng đón đợi niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống... là điều mà trang viết của vị bác sĩ mê văn thơ đem đến cho độc giả.
Phó giáo sư Đỗ Lai Thúy thông qua cuốn sách "Vẫy vào vô tận" đã giới thiệu 17 chân dung các nhà văn hóa, nhà nghiên cứu có đóng góp cho con đường học thuật và tư tưởng của đất nước.
BỬU NAM
Nguyễn Quang Lập - Trần Thùy Mai - Ngô Minh - Phạm Tấn Hầu - Nguyễn Quang Vinh - Hoàng Thị Duyên(*)