Trong những nhà phê bình văn học theo khuynh hướng thi pháp học ở Việt Nam, Đỗ Lai Thúy là một gương mặt tiêu biểu. Ông đã nổi lên như một nhà nghiên cứu với nhiệt tình cách tân và định hình được phong cách riêng. Đỗ Lai Thúy gây được tiếng vang với Con mắt thơ (1992), một tác phẩm phê bình thơ mới. Nhìn từ con đường tiếp cận, thành công vang dội của Hoài Thanh trước đây trong phê bình thơ mới, theo một số nhà nghiên cứu, gắn liền với phương pháp phê bình ấn tượng. Sau Hoài Thanh có thể kể tới Phan Cự Đệ với cách tiếp cận xã hội học trong công trình Phong trào Thơ mới. Đỗ Lai Thúy lại lựa chọn hướng tiếp cận thi pháp học và nó đã thực sự mang lại những phát hiện mới. Nhiệm vụ cơ bản của thi pháp học đấy chính là “tìm hiểu mô hình thế giới của nhà văn và của thời đại, lô gic của hình thức nghệ thuật, tức là căn nguyên của những cách thể hiện nay hay khác”(1). Vì thế, ngay từ đầu, Đỗ Lai Thuý trình bày cái nhìn thế giới của cá nhân cá thể trong đô thị hiện đại, cụ thể là quan niệm về con người, quan niệm về thời gian, quan niệm về không gian, “những viên gạch phạm trù xây dựng lên bức tranh thế giới”. “Nó trở thành cơ sở của một triết học văn hoá cho cái nhìn nghệ thuật trong thơ mới”(5). Vì thế, cái nhìn nghệ thuật của các nhà thơ mới tất yếu sẽ mang đặc điểm chung của cái nhìn thời đại; nhưng mỗi cá nhân lại có đặc điểm riêng về tâm sinh lý và hoàn cảnh sống cho nên họ cũng có cái nhìn nghệ thuật riêng. Chính cái nhìn nghệ thuật riêng tạo nên phong cách. Nhiệm vụ của nhà phê bình là phải phát hiện ra những sự “lệch chuẩn” trong cái nhìn nghệ thuật, phát hiện ra “con mắt thơ”. Cho nên, có thể nói Con mắt thơ là một công trình nghiên cứu phong cách các nhà thơ mới bằng con đường thi pháp học. Nhưng làm thế nào để phát hiện được “mắt thơ”? Đỗ Lai Thúy khẳng định điểm xuất phát cho hành trình tìm kiếm mắt thơ là tác phẩm. Hay cụ thể hơn là ngôn ngữ của tác phẩm: “Mã số của thơ chỉ có thể cất giấu trong và bằng ngôn ngữ”. Công việc của nhà phê bình là phải tìm những từ chìa khoá, để giải mã thơ. Nhưng nếu mã số thơ không nằm ở từ chìa khoá mà tản mác khắp nơi thì nhà phê bình phải dùng trực giác nghệ thuật để định hướng, thăm dò, phải phân tích, tháo giở tác phẩm rồi sau đó tổng hợp, “tái cấu trúc” theo sự mách bảo của trực giác. Đỗ Lai Thuý đã thực thi phương pháp nói trên như thế nào. Ông cho rằng mô hình về thế giới của các nhà thơ mới dựa vào sự lựa chọn của họ. Đó là sự lựa chọn con đường giải thoát cô đơn, tình yêu và tuyệt vọng, những khắc khoải siêu hình…Trên cơ sở đó, Đỗ Lai Thuý phát hiện chiều sâu của cái nhìn nghệ thuật của các nhà thơ mới, phát hiện quan niệm về con người của thơ mới ở chiều kích tâm linh, cũng như dựng lại cấu trúc cảm hứng của các thi sĩ. Chẳng hạn, với Xuân Diệu, ông cho rằng thơ Xuân Diệu là nỗi ám ảnh thời gian. Điều này thoạt nhìn chẳng có gì là mới, trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã viết “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình”(4). Tuy nhiên, Đỗ Lai Thúy lại nhìn thấy thơ Xuân Diệu là khát vọng chiến thắng thời gian. Cũng có nghĩa là con đường giải thoát cô đơn của Xuân Diệu là thông qua thời gian. Thi nhân tìm mọi cách để chiến thắng thời gian. Trước hết là chạy đua bằng tốc độ, thi nhân luôn ao ước có một cặp hài vạn dặm; sau nữa là lối sống đón trước để bắt kịp thời gian: Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. Nhưng chiến thắng thời gian bằng tốc độ không đủ, thi nhân phải chiến thắng bằng cường độ sống nữa. Thơ Xuân Diệu là sự khát thèm, vồ vập với cuộc sống; thơ thi nhân đầy động tác thể hiện sự chiếm hữu thế giới. Tình yêu, đối với Xuân Diệu cũng là con đường chiến thắng thời gian, bởi tình yêu là sự sống, sự sống bất tử, sự sống chẳng bao giờ chán nản. Cuối cùng là sứ mệnh của nghệ thuật, “một khi nắm được nghệ thuật, nghệ sĩ có thể tìm lại thời gian đã mất”. Viết về thơ mới, Đỗ Lai Thúy tập trung khám phá những hiện tượng phức tạp, những nhà thơ mà theo ông ngả về hướng tượng trưng, siêu thực. Ông viết rất hay về thơ Hàn Mặc Tử, cho rằng mô hình sáng tác của thơ Hàn Mặc Tử là: tính trữ tình + tư duy tôn giáo + cái tôi cá nhân hiện đại. Đỗ Lai Thúy khẳng định thơ Lý- Trần cũng là sự kết hợp giữa tính trữ tình và tư duy tôn giáo nhưng lại thiếu chất cá nhân hiện đại nên không tạo nên hiện tượng đột biến như thơ Hàn Mặc Tử. Ngoài ra, Đỗ Lai Thúy lại phát hiện điểm độc đáo của nhà thơ trên cái mô hình chung đó. Chẳng hạn, tính trữ tình trong thơ Hàn Mặc Tử có những đểm đặc biệt như tính gợi cảm, siêu thực và những yếu tố nhục cảm. Hay tư duy tôn giáo, vốn mang lại cho sáng tác tầm phổ biến nhân loại, nhưng tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử còn đạt đến một tinh thần tôn giáo vũ trụ. Ông phát hiện con đường giải thoát đau thương của Hàn Mặc Tử chính là bằng giải pháp của đau thương. “Với tôn giáo đau thương là một phương tiện cứu chuộc tỗi lỗi. Còn với Hàn Mặc Tử, nhà thơ, giải phẫu đau thương là hành vi sáng tạo”(5). Chúng được thể hiện qua những biểu tượng đầy ám ảnh trong thơ Hàn: trăng, hồn, máu. Như thế, những lựa chọn để thoát khỏi cô đơn của các thi sĩ thơ mới tựa như là những giả thuyết khoa học; phần “mã thám” vào văn bản, tìm những từ khoá, những biểu tượng ám ảnh trở thành công việc chính để chứng minh cho giả thiết kia. Đấy là con đường để Đỗ Lai Thuý xây dựng mô hình nghiên cứu của mình. Sau Con mắt thơ, Đỗ Lai Thuý tiếp tục vận dụng phương pháp mới giải thích hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương, giải quyết “câu đố” do Hồ Xuân Hương đặt ra, đấy là sự có mặt bất khả kháng của cái mà người ta thường gọi là dâm, là tục trong thơ bà. “ Thứ câu đố do con quái Sphinx nghĩ ra để nát những ai muốn đi vào đền thơ Hồ Xuân Hương”(6). Đỗ Lai Thuý đã tiếp cận thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực. Cách tiếp cân này, theo tác giả, một mặt khắc phục được những hạn chế của những cách tiếp cận trước, đồng thời không phủ nhận, loại bỏ các phương pháp đã có mà chỉ biến chúng thành trường hợp cụ thể, đúng trong việc giải quyết từng bình diện cụ thể của thơ Hồ Xuân Hương. Trước Đỗ Lai Thuý đã có một số nhà nghiên cứu đề cập đến vấn đề này nhưng “các bài viết chỉ mới nhắc đến một vài khía cạnh của tín ngưỡng phồn thực, hoặc liên hệ một số cạnh khía bề ngoài của thơ Hồ Xuân Hương. Chưa ai đặt vấn đề một cách hệ thống nghiên cứu vấn đề này”(6). Đỗ Lai Thúy đặt thơ Hồ Xuân Hương trong đường dây lịch sử : Tín ngưỡng phồn thực - tục thờ cúng phồn thực - lễ hội phồn thực- văn hóa dâm tục - thơ Hồ Xuân Hương. Ông tìm ra đường dây liên hệ giữa biểu tượng về âm vật, dương vật, hoạt động tính giao trong thơ Hồ Xuân Hương với những biểu tượng văn hoá trong tín ngưỡng phồn thực. Thế giới quan của tín ngưỡng phồn thực, vốn không có sự đối lập giữa cái thiêng và cái tục. “Sau này, do xã hội phân từng, cái tục và cái thiêng bắt đầu tách rời khỏi nhau, mờ dần quan hệ với nhau, nhất là trong ý thức chính thống xã hội. Tuy nhiên, trong sâu thẳm vô thức, tiềm thức, người ta vẫn mong quay về với thuở thiên đường”(6). Thơ Hồ Xuân Hương chính là sự hoài niệm của thế giới phồn thực. Thơ bà có tính lấp lửng hai mặt, bởi vì nó mang nhãn quan thế giới của lễ hội phồn thực. Việc tách rời phần thanh và tục trong thơ Hồ Xuân Hương là một công việc bất khả. Phải chăng, đến đây, câu đố do Hồ Xuân Hương đặt ra đã tìm được lời giải? Đỗ Đức Hiểu nhận xét: “Tác phẩm Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực phát hiện phồn thực là nguyên lý triết học thơ Hồ Xuân Hương, vấn đề tranh cãi trong một thế kỷ nay, tôi nghĩ phương pháp giải quyết của Đỗ Lai Thuý là thuyết phục hơn cả”(2). Đỗ Lai Thuý cũng từ nhãn quan của lễ hội phồn thực để cắt nghĩa, lý giải nội dung triết lý, thẩm mỹ, sự độc đáo của tiếng cười trong thơ Hồ Xuân Hương. Chẳng hạn, tiếng cười trong thơ Hồ Xuân Hương, đấy là tiếng cười tự do, tiếng cười giải phóng, tiếng cười hoà đồng, hoá giải thiêng tục, đưa con người trở lại nguồn cội, soi sáng ý thức con người bởi chiến thắng nỗi sợ hãi…Góc nhìn mới vừa có tác dụng giúp tác giả có những phát hiện mới mẻ về thơ Hồ Xuân Hương; mặt khác lại có thể giải thích triệt để hơn những phát hiện, khám phá, hoặc những tiên cảm của những nhà nghiên cứu, phê bình đi trước trong hành trình khám phá thơ nữ sĩ. Qua những công trình giàu sáng tạo, Đỗ Lai Thuý đã khẳng định lối đi riêng của mình trong phê bình văn học. Cũng là những nhà phê bình thi pháp học, nhưng nếu như Đỗ Đức Hiểu là nhà phê bình thiên về khám phá “mĩ học của ngôn từ”, “sự ám ảnh của âm và nghĩa” thì Đỗ Lai Thúy tập trung phát hiện cái nhìn nghệ thuật của nhà văn trong tương quan với cái nhìn thế giới của thời đại chi phối sáng tác của anh ta. Công trình Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực, về cơ bản là nghiên cứu cái nhìn nghệ thuật của Hồ Xuân Hương trong tương quan với cái nhìn thế giới của lề hội phồn thực. Hơn nữa, điểm độc đáo của Đỗ Lai Thuý là ông luôn có ý thức dựng lên cấu trúc cảm hứng của nhà thơ. Không kể những công trình đã mô tả, bài viết gần đây của ông về thơ Hoàng Cầm (Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cầm), ông cho rằng thơ Hoàng Cầm là sự tìm về với mẹ. Trong các tác phẩm phê bình, vì thế, Đỗ Lai Thuý luôn vận dụng phân tâm học để thám hiểm vào chiều sâu trong sáng tác của các thi nhân. Nghiên cứu các biểu tượng ám ảnh của các thi sĩ thơ mới, của thơ Hồ Xuân Hương, Đỗ Lai Thuý có ý thức so sánh những biểu tượng đó với những cổ mẫu; từ đó phát hiện, khám phá, thăm dò phần vô thức trong tác phẩm. Do đó, những phát hiện của Đỗ Lai Thuý có chiều sâu. Trong bài viết về thơ Hoàng Cầm, vừa dẫn, ông còn cho rằng thơ Hoàng Cầm là sự giải toả, thăng hoa của mặc cảm Ơ đip, một nhận xét không dễ được thừa nhận. Những công trình của Đỗ Lai Thuý gần như bao giờ cũng chứa đựng những phát hiện mới, có lúc vượt ra khỏi những suy nghĩ thông thường, khiến cho ta có cảm nhận người nghiên cứu đã không tránh được sự cực đoan. Tuy nhiên, ông luôn gắn những suy nghĩ của mình với những lý thuyết khoa học, không phải là ngững suy nghĩ, gán ghép vu vơ, vô bổ. Chúng ít nhất cũng tạo nên sự khiêu khích, khiến người ta buộc phải thoát khỏi lối mòn của sự cảm thụ quen thuộc, vốn đã ăn sâu vào não trạng. Đỗ Lai Thuý quan niệm rằng nhà phê bình không chỉ khám phá cái đẹp của tác phẩm mà còn sáng tạo ra nó bằng cách riêng của mình. Trong phê bình, Đỗ Lai Thuý, trước hết, chứng tỏ mình là một nhà khoa học, ông đặt giả thuyết, vận dụng các nguyên lý của phê bình thi pháp học, tìm con đường, phương án giải quyết mới, xây dựng mô hình, nỗ lực vận dụng các thao tác khoa học… Mục đích là để khai phá ra những chiều kích thẩm mỹ mới của tác phẩm nghệ thuật. Nhưng nhiều lúc Đỗ Lai Thuý lại gọi công việc của mình là những “mơ mộng nghệ thuật”. Công việc của nhà phê bình, như thế, hoàn toàn không thể thiếu trái tim mẫn cảm, sự mách bảo của trực giác, vô thức. Phải chăng chính sự “mơ mộng nghệ thuật” tạo nên vẽ duyên dáng trong tác phẩm phê bình của Đỗ Lai Thuý. Tài liệu tham khảo 2. Đỗ Đức Hiểu, Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, 2000. 3. Trần Đình Sử, tuyển tập, (2 tập), NXB Giáo dục, 2005. 4.Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 1996. Theo Lê Sử ( hoinhavanvietnam.vn) |
(Cuộc trưng cầu ý kiến các giảng viên dạy lý luận và lịch sử văn học ở các trường ĐHTH ở Liên Xô)
Phan Thắng thực hiện
ĐỖ LAI THÚY
Ngồi buồn lại trách ông xanh
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
(Nguyễn Công Trứ)
NGUYỄN KHẮC THẠCH
Không biết ngẫu nhiên hay cố ý mà tập thơ sẽ in riêng của nhà thơ Trần Lan Vinh lại mang tên với chữ đầu là Lục (sáu) – Lục bát đồng dao? Thôi thì cứ nói theo khẩu ngữ nhà Phật là tùy duyên nhưng điều quan trọng lại không phải ở phần cứng đó mà ở phần mềm hoặc không ở chỗ thể mà ở chỗ dụng của danh xưng.
LTS: Thời gian qua, thơ Tân hình thức Việt đã bắt đầu được nhiều bạn đọc, bạn thơ quan tâm. Tuy nhiên, nhiều người vẫn băn khoăn về việc làm sao để đọc một bài thơ Tân hình thức? Làm sao để giữ nhịp điệu của thơ?... Bài viết dưới đây của Biển Bắc, nhằm giới thiệu cách đọc-diễn một bài thơ Tân hình thức Việt. Vì muốn làm sáng ý nguyện ngôn ngữ đời thường nên bài viết sử dụng ngôn ngữ rất THT Việt. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN
Xuân đã đem mong nhớ trở về
Lòng cô gái ở bến sông kia
Cô hồi tưởng lại ba xuân trước
Trên bến cùng ai đã nặng thề…
(Nguyễn Bính)
DÂN TRÍ
Không học chữ Nho, nghe qua hai câu thơ Hán Việt vừa dẫn thì cũng có thể hiểu được nghĩa lý một cách mang mang hồn sử thi.
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Khi mới học cấp 2, tôi đã thấy trong tủ sách nhà tôi có hai cuốn Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan và Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân do một người dượng mua về từ Sài Gòn.
THÁI KIM LAN
Bài viết này chỉ là một phác thảo gợi ý về sự nghiệp và ảnh hưởng của hai nhà nữ trí thức miền Nam trong những thập niên 60, 70. Phùng Thăng tạ thế cuối thập niên 70. Phùng Khánh đã là Ni sư giữa thập niên 60 và trở nên một Ni sư Trưởng lỗi lạc trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam trước và sau 1975, liễu sinh 2003.
YẾN THANH
“Vĩnh biệt mày, cái thằng không biết tưởng tượng. Mày tự mà đốt đuốc cho cuộc hành trình thăm thẳm của mày đi”
ĐỖ LAI THÚY
Trong một vài năm gần đây, nhiều nhà phê bình và nghiên cứu văn học đã có những cố gắng đáng kể để thoát ra khỏi tình trạng tiếp cận văn học một cách xã hội học có phần dung tục, hướng đến cách tiếp cận mới xuất phát từ đặc trưng của chính bản thân văn học. Một trong nhiều đường hướng nghiên cứu có triển vọng đó là phong cách học.
Cần phải nói ngay, Tưởng tượng & Dấu vết là cuốn tiểu thuyết khó đọc. Nó khó đọc vì hai lẽ: thứ nhất, nền tảng logic văn bản không nằm trong phương pháp tạo dựng hay trong tri thức thực hành của tác giả, mà nó nằm sâu trong yếu tính[2] thời gian.
ĐINH VĂN TUẤN
Thi hào Nguyễn Du khi sáng tác “Truyện Kiều” đã đặt tên cho tác phẩm nổi tiếng này là gì? Cho đến nay, giới nghiên cứu Kiều vẫn còn phân vân, chưa dứt khoát hẳn một nhan đề nào là khởi đầu do cụ Nguyễn Du đặt.
KHẾ IÊM
Tặng nhà thơ Biển Bắc và Hồ Đăng Thanh Ngọc
Nhà thơ và nhà nghiên cứu Mỹ Timothy Steele, trong bài viết “Phép làm thơ cho những nhà thơ thế kỷ 21”, nhấn mạnh, cách làm thơ trong thế kỷ tới sẽ là tuôn nhịp điệu ngôn ngữ nói vào thể luật, để hình thành nhịp điệu thơ.
HOÀNG DŨNG, BỬU NAM
(Phỏng vấn nhà sử học Nguyễn Hồng Phong, nhà văn Huy Phương và nhà phê bình văn học Phương Lựu)
HỒ TIỂU NGỌC
Thế kỷ XXI là thế kỷ của internet và truyền thông, nơi mọi chân lý và định luật đều gói gọn ở trong hai con số 0 và 1 của ngôn ngữ lập trình mạng.
VŨ THỊ THƯỜNG
Gần đây, nhân công việc tìm nhặt tư liệu xung quanh vụ án Lệ Chi viên để viết một cái gì đó bằng văn xuôi, tôi có đọc một số sách viết về Nguyễn Trãi. Trong số sách tôi đã đọc ấy, có hai cuốn: Văn chương Nguyễn Trãi và Chủ nghĩa yêu nước trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn của tác giả Bùi Văn Nguyên.
VŨ TRỌNG QUANG
I. HÀNH TRÌNH TẤT YẾU
Bước chân bắt đầu từ khởi điểm Octavio Paz “Giữa im lặng và tiếng nói, đó là thơ”. Vậy thì im lặng hay lên tiếng, có người nói thơ là tiếng nói, và có người cho vô ngôn là một giá trị.
ROLAND BARTHES
Trong cuộc chiến giữa bạn với thế giới, hãy đặt thế giới ở hàng thứ cấp (Franz Kafka)
LÊ QUANG THÁI
Việt Nam đã có thơ mới sánh cùng với thơ mới của các nước Nhật Bản, Trung Hoa, Indonesia; khác nhau ở chỗ phong trào thơ mới dậy lên sớm hơn hoặc muộn hơn ba năm mà thôi. Còn các nước Thái Lan, Lào và Campuchia không có chuyện thơ mới bởi lẽ tình hình văn nghệ thiếu điều kiện phát triển.