Đinh Hùng - một hồn thơ kỳ ảo

15:00 13/01/2014

VÕ TẤN CƯỜNG

Đinh Hùng - một hồn thơ kỳ ảo với vũ trụ thơ thuần khiết, song hành với thực tại là hiện tượng thi ca đầy phức tạp và bí ẩn. Số phận cuộc đời của Đinh Hùng và thi ca của ông chịu nhiều oan trái, bị chìm khuất dưới những dòng xoáy của thời cuộc cùng với những định kiến và quan niệm hẹp hòi về nghệ thuật…

Ảnh: wiki

Kể từ khi tư tưởng lý luận về phản ánh hiện thực trong văn học nghệ thuật trở thành “thống soái” trên thi đàn cho đến nay, các nhà phê bình “ngại” viết về thơ Đinh Hùng bởi thơ ông có vẻ siêu hình, thoát ly thực tế.

Bóng tối của sự lãng quên vẫn còn bao phủ gia tài thi ca của Đinh Hùng. Trong khi đó, thi phẩm của các nhà thơ cùng thời với ông như: Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chương, Trần Dần, Hoàng Cầm… đều đã được in ấn, xuất hiện hàng loạt trên thi đàn. Thi ca của họ đã được trả lại chỗ đứng trên thi đàn và trong lòng người yêu thơ đúng như giá trị nghệ thuật tự thân của nó. Đinh Hùng với vũ trụ thi ca lung linh và huyền ảo vắng bóng trên thi đàn đã để lại khoảng trống trong dòng chảy thơ tâm linh vốn đã hiếm hoi của dân tộc.

Đinh Hùng là nhà khảo-cổ-thi-ca đầu tiên ở Việt Nam đã dám ngược về thời tiền sử để vớt lên những mảnh hồn của nhân loại bị chôn vùi dưới bao lớp sóng thời gian. Thơ Đinh Hùng với cái đẹp thơ siêu thực tế của thiên nhiên và tình yêu không phải là một phản-thực-tế như một vài nhà phê bình đã đánh giá mà là một thế giới mở được dựng lên bởi linh thị của siêu cảm và trực giác nhà thơ. Không gian và thời gian trong thơ ông xóa nhòa ranh giới, hòa nhập với cõi vô cùng, tan vào thời sơ khai của vũ trụ với sự khốc liệt, dữ dội của cảm xúc, tư duy và sự khuấy đảo đến kinh hoàng của hình tượng thơ:

Khi miếu Đường kia phá bỏ rồi
Ta đi về những hướng sao rơi

Lạc loài theo hướng chân cầm thú
Từng vệt dương sa mọc khắp người
Rồi những đêm sâu bỗng hiện về

Vượn lâm tuyền, khóc rợn trăng khuya
Đâu đây u uất hồn sơ cổ
Từng bóng ma rừng theo bước đi
……
Từng buổi hoàng hôn xuống lạ kỳ
Ta nằm trên cỏ lắng tai nghe
Thèm ăn một chút hoa man dại
Rồi ngủ như loài muôn thú kia

            (Những hướng sao rơi)

Cái đẹp trong thơ Đinh Hùng huyền nhiệm và rợn ngợp với sắc màu sử thi trong các bản trường ca Iliat và Ôđixê của Hôme. Cái đẹp thơ ông mang bóng dáng và tinh thần nhân đạo của hình tượng người anh hùng sử thi:

Ta lảo đảo vùng đứng lên cười ngất
Ghì chặt nàng cho chết giữa mê ly
Rồi dày xéo lên sông núi đô kỳ

Bên thành quách ta ra tay tàn phá
Giữa hoang loạn của lâu đài, đình tạ
Ta thản nhiên đi trở lại núi rừng

Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng
                                    (Bài ca man rợ)

Cái đẹp của tình yêu trong thơ Đinh Hùng không phải là những cung bậc cảm xúc bình thường mà tràn đầy, choáng ngợp sự mê dại của tâm linh trước thế giới diệu kỳ của ái tình:

Ta thường có những buổi sầu ghê gớm
Ở bên em-ôi biển sắc rừng hương!
Em rực rỡ như một ngàn hoa sớm
Em đến đây như đến tự thiên đường

……
Buổi em về xác thịt tẩm hương hoa
Ta sống mãi thở lấy hồn trinh tiết
Ôi cám dỗ! Cả mình em băng tuyết

Rộn xuân tình lên bệ ngực thanh tân
                                                (Kỳ nữ)

Cái đẹp dưới cái nhìn và cảm thức của Đinh Hùng là một thế giới đầy cám dỗ với sự huyền nhiệm, siêu thoát. Thi sĩ tôn thờ tình yêu và xem nó như một thứ tôn giáo. Ông đặt sắc đẹp lên ngôi, xem nó là một thứ quyền năng chi phối tâm linh và sự sống của mình. Cái đẹp trong thơ Đinh Hùng vừa là cứu cánh vừa là cái chết, nó ảo hóa với muôn sắc thái và ma mị nên dễ gây ấn tượng rờn rợn:

Hỡi kỳ nữ! Em có lòng tàn ác
Ta vẫn gần - ôi sắc đẹp yêu ma

Lúc cuồng si nguyền rủa cả đàn bà
Ta ôm ngực nghe trái tim trào huyết
Ta sẽ chết, sẽ vì em mà chết

Một chiều nào tắt thở giữa môi hôn
Ta hái trong em lấy đóa hoa hồn

                                                (Kỳ nữ)

So với thơ tình của các nhà thơ mới, thơ tình yêu của Đinh Hùng đã vượt qua nỗi khát khao dâng hiến, yêu đương của cái tôi để hướng về thế giới tâm linh huyền bí trộn lẫn với cái siêu hình của tôn giáo. Sự linh thiêng của cõi vô hình tôn giáo đã phủ lên thế giới tâm linh trong thơ Đinh Hùng vẻ hư ảo, huyễn hoặc. Người đọc muốn khám phá thế giới tâm linh của thơ Đinh Hùng cần vén màn sương lãng đãng của sự huyền nhiệm. Nhưng vấn đề quan trọng là ở chỗ không thể xem nhẹ nó như một yếu tố phụ bởi vì chính màn sương ấy lại làm nên vẻ đẹp lung linh, huyền bí của thơ Đinh Hùng:

Trời cuối thu rồi em ở đâu?
Nằm bên đất lạnh chắc em sầu?
Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy

Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu…
                        (Gửi người dưới mộ)

Cái chết và sự sống thường bị chia cắt, giới hạn bởi không gian vật lý nhưng trong cõi tâm linh của thi sĩ khát vọng giao hòa, đồng điệu với con người vẫn có thể vượt qua mọi ranh giới để hướng đến những khoảng cách tưởng như vô tận:

Ta hát bài kinh, thoảng dã hương
Từng đêm chiêu niệm bắt hồn nàng
Lời ra cửa biển tìm sao rụng

Rỏ xuống mộ em giọt lệ thương…
                        (Màu sương linh giác)

Thế giới tình yêu của thi sĩ Đinh Hùng bàng bạc giữa không gian vô định nhưng lại vang vọng những âm thanh muôn màu của sự vật đang giao hòa và tan chảy vào nhau. Thi sĩ Đinh Hùng không hoàn toàn tạo nên vũ trụ riêng mình, ông chỉ hóa giải thế giới của con người bằng những thành tố tâm linh trộn hòa cùng đời sống và tạo vật. Thi sĩ Đinh Hùng trốn vào thế giới tiền sử với những qui luật tàn khốc của tự nhiên và ngân lên khúc ca mê hồn là để xa lánh thế giới xô bồ, đượm màu chết chóc của thời hiện đại và để cảnh tỉnh con người? Hay là ông muốn tìm lại dấu chân của nhân loại thời tiền sử để tiên tri về con đường của tương lai? Dù thế nào ông vẫn là thi sĩ của những bài thơ với nhiệt năng tâm linh như ngọn lửa trắng lung linh luôn thắp sáng và làm ấm áp tâm hồn của con người hậu thế…

Cặp mắt xanh của Hoài Thanh, Hoài Chân đã phát hiện ra “niềm kinh dị” của thơ Chế Lan Viên nhưng lại bỏ sót thế giới kỳ ảo của thơ Đinh Hùng. Hai nhà phê bình Hoài Thanh, Hoài Chân với lối phê bình nặng về trực giác và kinh nghiệm nên đã không để mắt tới thơ Đinh Hùng cũng là lẽ thường nhưng chẳng phải vì thế mà tầm vóc tư tưởng và nghệ thuật của thơ Đinh Hùng bị giảm sút.

Nếu thi ca của Chế Lan Viên sừng sững như những tháp Chàm thì thơ Đinh Hùng lại huyền ảo một thế giới hỗn mang và đầy mê cung kỳ ảo. Tầm vóc thi ca của thi sĩ Đinh Hùng có thể sánh với bất kỳ tác phẩm của nhà thơ hiện đại nào. Thi ca của ông vẫn còn là sự huyền bí chờ sự giải mã của những ai quan tâm đến vận mệnh thi ca của dân tộc.

V.T.C
(SDB11/12-13)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.