Điều bí ẩn về "Chim Phượng hoàng" của Shakespeare

10:30 25/05/2015

Hẳn là đã có rất nhiều người nghe nói đến cuộc tranh luận uyên bác kéo dài hơn 200 năm đề cập đến những bài Xô-nêt của Shakespeare và những cố gắng chưa có kết quả nhằm nhận ra những nhân vật chính trong các tác phẩm, đó là "Người đàn bà sầu thảm" và "Cậu bé dễ yêu".

Ảnh: internet

Tuy thế, vẫn còn một bài thơ bí ẩn hơn nữa trong di sản của Shakespeare, bài thơ này đã được những học giả về Shakespeare tranh cãi trong ngót 100 năm vừa qua, và được xem như sáng tác bí ẩn nhất của nhà thơ lớn ấy.
 

Ảnh: internet

Dưới tựa đề "Chim Phượng hoàng và chim Gáy", bài thơ là một khúc bi ai của một đôi uyên ương nào đó, một khúc ai điếu cho đôi tình nhân mang những cái tên của các loài chim.

Vậy thì cái chết của ai đã được khóc than chua xót đến như vậy trong bài thơ? Điểm mấu chốt có thể góp phần gỡ rối cho vấn đề hóc búa đó là như thế này: Bài thơ ấy đã được ông Chester xuất bản lần đầu tiên trong một tập sách dành nói về cái chết không rõ ràng của một đôi tình nhân bí ẩn. Trong tập sách đó còn có sự đóng góp của các nhà thơ tên tuổi người Anh như Ben Johnson, George Chapman, John Marston và nhiều tác giả ít tên tuổi khác.

Trong số ba bản gốc còn lại đến nay của tập sách do Chester xuất bản, bản thứ nhất hiện được giữ ở Anh - và hai bản kia ở Mỹ. Trong một bản, ngày xuất bản đã bị cắt mất, bản thứ hai ghi năm 1601, và bản thứ ba ghi ngày xuất bản là năm 1611 mặc dầu rõ ràng là cả ba bản sách ấy được in từ một mẫu. Cuốn sách ấy, khác với "Những bài Xô-nêt", không đăng ký nơi bảo đảm tác quyền của nhà xuất bản, cũng không được một tờ báo định kỳ hoặc một xuất bản phẩm nào nói đến, mặc dầu nó đã được ông Edward Blount xuất bản, đây là con người mà sau đó chẳng bao lâu, đã ấn hành "Tập sách đầu tiên", tập sách đầy đủ nhất về những tác phẩm của Shakespeare vào năm 1623.

Các học giả đã không hề nghiên cứu về cuốn sách của Chester mãi đến năm 1878, kể từ sau đó, nhiều người đã đưa ra một khuôn mẫu có thể chấp nhận được của bài thơ, trong đó có cả của Nữ Hoàng Elizabeth. Tuy thế, phân tích cho đến cùng thì không có một lời giải nào do các nhà phê bình Anh và Mỹ đề nghị phù hợp hoàn toàn với sự miêu tả. Tổng kết cuộc tranh luận về bài thơ "Chim Phượng hoàng và chim Gáy", ông H. E. Rollins, một nhà chuyên môn Hoa Kỳ về lãnh vực văn học Anh đã đi đến kết luận rằng rất có thể bài thơ ấy sẽ mãi mãi là một điều bí ẩn.

Năm 1986, khi nhà phê bình Xô Viết llya Guililov xuất bản những thành quả việc phân tích cuốn sách của Chester trong cuốn "Tuyển đọc Shakespeare", cuốn sách do Viện Khoa Học Liên Xô ấn hành. Một trong những yếu tố giúp thực hiện nghiên cứu này tiến hành được là nhờ Thư viện lưu trữ Shakespeare, Folger và Nhà Bảo Tàng Anh đã gửi những bản sao micro phim cùng với những xuất bản phẩm quý hiếm khác trong thời đại Shakespeare.

Kết luận đầu tiên mà học giả Xô Viết này đưa ra là: Tất cả những bản dịch bài thơ ấy của các dịch giả Xô Viết và các dịch giả thời trước cách mạng đều đã nhầm lẫn chim Phượng hoàng với một gã đàn ông và chim Gáy là một phụ nữ, trong khi cả Shaksepeare và cả những tác giả khác trong cuốn sách đều viết về chim Gáy như một "chàng" và chim Phượng hoàng như một "nàng". Tất nhiên là người ta sẽ chuẩn bị một bản dịch tiếng Nga khác về tác phẩm này của Shakespeare, và nó đã được ủy thác nhiệm vụ ấy.

Tuy vậy, kết quả chính của công cuộc nghiên cứu của Guililov như sau: Sau khi phân tích hoàn toàn nội dung và nét riêng của bản in tác phẩm bí ẩn ấy cùng với luận văn của các học giả Phương Tây, Ilya Guililov đã chứng minh rằng ngày tháng xuất bản của cuốn sách ấy được chấp nhận từ trước đến nay - năm 1601 là sai. Theo ông ta, ngày tháng trái ngược ghi trên trang tựa đề của cuốn sách hoàn toàn là một sự lừa phỉnh. Ông ta lập luận rằng cuốn sách của tác giả Chester và tất nhiên là cả bài thơ của Shakespeare ra mắt vào năm 1612 hoặc 1613. Giả thuyết này củng cố thêm cho sự nhìn nhận rằng chim Phượng hoàng và chim Gáy biểu tượng là Roger Manness, Bá tước xứ Rutland và Elizabeth, con gái của nhà thơ Philip Sidney, những kẻ yêu nhau bằng mối tình trong sạch, vừa mới kết hôn đã sớm mất vào mùa hè năm 1612. Trong suốt cuộc đời, họ đã giấu kín hoạt động của mình, đặc biệt là việc theo đuổi sự nghiệp văn chương, trong vòng bí mật. Một điều khác thường là đám tang của họ đã cử hành riêng lẻ (cả hai đám tang đều tiến hành ban đêm). Không một ai được phép nhìn mặt người chết. Những điều người ta biết về cặp uyên ương này sau đó hẳn là dù để hoàn thành một cuốn tiểu thuyết hay, nhưng những công trình nghiên cứu về Shakespeare lại theo đuổi mục đích khác.

Đến nay, kể từ ngày bài thơ về chim Phượng hoàng và chim Gáy của Shakespeare được xuất bản lần đầu, đã ngót nghét bốn thế kỷ, và một học giả sống ở xa đất nước Anh hàng ngàn dặm đã tiến hành lột bỏ tấm màn thần bí. Những người thích thú với cái lịch sử rối rắm của việc nghiên cứu Shakespeare phải biết rõ cái tên Rutland. Đây là người đã theo học tại trường đại học Padua ở Ý cùng với những sinh viên Đan Mạch Rosencrants và Guildenstern, những cái tên về sau đã được Shakespeare đưa vào tác phẩm trong "Hamlet". Vào những năm 1920 giới phê bình văn học Nga đã quen thuộc với một giả thuyết của nhà sử học Bỉ, ông Demblon, ông này cho rằng Rutland là tác giả của nhiều vở kịch mà người ta đã gán cho là của Shakespeare. Vào thời đó, Anatôlư Lunatrátxki là một người bênh vực cho giả thuyết đó, về sau một tác giả người Nga làm việc ở Mỹ, ông P. Porokhovshchikov, đã nghiên cứu đề tài này.

Sự khám phá của học giả Xô Viết đã góp phần làm rõ nội dung bài thơ sầu thảm nhất của Shakespeare. Nó cũng mở ra một hướng cho việc nghiên cứu những tiền đề còn "nghi hoặc" khác trong văn học sử Anh thời Shakespeare, và trong sự phân tích cuối cùng những tư tưởng rất hiển nhiên trong việc nhìn nhận Shakespeare mà người ta còn ít biết đến. Ấn bản mới đây nhất của Ilya Guililov phơi bày thêm một loạt những trò đùa phỉnh văn chương liên hệ đến tên một nhân vật đồng thời với Shakespeare, Thomas Coryaté, nhà du lịch và cũng là nhà văn.

Những báo cáo từ Matxcơva chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý của các chuyên gia nước ngoài về Shakespeare, đặc biệt là ở Anh và ở Mỹ, như một lời mời tranh luận trong cái hướng chúng tôi chắc là sẽ đạt được, là biết thêm những dữ kiện hay cũng như những điều mà chúng tôi không ngờ đến.

LÊ HÙNG VỌNG
(Dịch báo T.T Matxcơva 2-88)
(SH35/01&02-89)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Điều gì đã khiến cho vở kịch có sức sống trường tồn như vậy?

  • Isaac Bashevis Singer (14/7/1904 - 24/7/1991) nhà văn Mỹ gốc Do Thái Ba Lan đoạt giải Nobel Văn học năm 1978. Những sáng tác của ông chủ yếu viết bằng tiếng Yiddish (tiếng Đức cổ của người Do Thái).

  • Tổng thống thứ 44 của Mỹ có phong cách lãnh đạo đặc trưng, thu hút được hàng triệu người ủng hộ và khiến cả những đối thủ của ông cũng phải thán phục.

  • NGUYỄN QUỐC THẮNG 

    “Tất cả những gì tôi đã làm được đều là kết quả của sự cô đơn”1
                       (Kafka)
    “Hệ thống ám dụ của Kafka thực hiện chức năng của nó như những ký hiệu vô hạn chất vấn những ký hiệu khác”2
                       (Roland Barthes)

  • Paul Doumer là một chính khách người Pháp, sinh năm 1857. Ông làm Toàn quyền Đông Dương từ 1897-1902. Sau ông làm Tổng thống Pháp từ 1931-1932. Ông bị một phần tử quá khích người Nga ám sát năm 1932. Cuốn hồi ký Xứ Đông Dương là cuốn sách viết riêng về giai đoạn ông ở Đông Dương.

  • A. GELMAN(*)

    Chúng ta là những người chứng kiến tình trạng lo ngại đang tăng lên của xã hội về khía cạnh đạo đức trong sinh hoạt của đảng ta.

  • LGT: Tiểu luận “Làm sao văn học khả hữu?” dưới đây là văn bản phê bình văn học đầu tiên của Maurice Blanchot được ra mắt vào năm 1941 trên Nhật báo tranh luận (Journal des débats).

  • Kể đến Noel năm nay, thế là tôi đã qua trọn 50 mùa Noel ở nước Đức, đất nước có truyền thống Noel lâu đời, nơi thành phố Munich, vốn có tên từ những nhà tu đạo Thiên Chúa “Mönche”, nơi có chợ Giáng sinh gọi là “Christkindelmarkt” truyền thống xa xưa (khoảng 400 năm trước), và cũng từ vùng này, bài thánh ca bất tuyệt “Stille Nacht” cất lên, vang vọng khắp trên địa cầu đã tròn 200 năm.

  • LÊ VIỄN PHƯƠNG

    (Đọc Cuộc đời yêu dấu của Alice Munro, Nguyễn Đức Tùng chuyển ngữ, NXB Trẻ, 2015).

  • TRẦN HUYỀN SÂM

    Vì sao phương Đông đã trở thành chủ đề trung tâm trong tiểu thuyết Pháp đương đại? Đó là nội dung bàn luận trong mùa trao giải văn học năm nay ở Paris.

  • L.T.S: "Cuộc đời của André Colin" là thể loại sân khấu "lưu động" một sự kết hợp của đối thoại, âm nhạc, đồ họa, trên sân khấu diễn ra đồng thời hình vẽ, tranh liên hoàn, tranh đèn chiếu và phim ảnh 16mm. Từ khi biên soạn (1987) kịch bản đã được diễn một trăm lần ở Paris và các tỉnh khác. Tác giả Anne Quesemand, thạc sĩ văn học cổ điển, là người biên kịch đồng thời là diễn viên cùng với Laurent Berman. Bà còn là tác giả của nhiều phim ngắn.

  • Châu Âu hẳn nhiên sẽ trở nên dễ bị tổn thương hơn trước các đe dọa và đòn tấn công của bọn khủng bố. Một số chính sách về nhập cư có thể sẽ thay đổi để thích nghi với tình hình mới.

  • VIỄN PHƯƠNG

    Lúc 13 giờ Thụy Điển (tức 18 giờ Việt Nam), ngày 8/10 tại Viện Hàn lâm Khoa học Thụy Điển, tên của nhà văn Svetlana Alexievich đã được xướng lên dành cho giải Nobel văn chương.

  • Antoine Leiris đã mất đi người vợ Helene dấu yêu của mình trong vụ xả súng ở nhà hát Bataclan, Paris ngày 13/11. Con trai của họ, bé Melvil 17 tháng tuổi giờ đây đã mất đi người mẹ của mình.

  • MAURICE BLANCHOT

    Cuốn sách mà Jean Paulhan vừa dành cho văn chương và ngôn ngữ được đọc với một tâm thế khác thường.

  • Ngày 1-11-1988, họa sĩ Bửu Chỉ đến Paris. Ngày 30-4-1989, họa sĩ trở về nước. Trong thời gian ở Paris, Bửu Chỉ đã sáng tác nhiều tác phẩm mới và đã có hai cuộc triển lãm tranh thành công tốt đẹp: tại Nhà Việt Nam từ 1-2 đến 5-3-1989 với 21 bức tranh và tại UNESCO với 40 bức từ 3-4 đến 14-4-1989.

  • QUẾ HƯƠNG

    Tôi đến Mỹ 4 tháng, thăm con trai từng là nha sĩ, qua học lại, 41 tuổi mới chính thức vào trường đại học Mỹ, sống lần nửa đời sinh viên ở một đất nước có nền giáo dục hàng đầu thế giới.

  • NGUYỄN KHOA QUẢ

    Đất nước thống nhất, hòa bình lập lại từ năm 1975 đến năm 1979, chưa đầy 4 năm, phía bắc Đặng Tiểu Bình - Trung Quốc đem quân đánh phá. Phía nam Khơ me đỏ Campuchia, bọn Pôn Pốt sang đánh phá các tỉnh Kiên Giang và Tây Ninh... Quân tình nguyện Việt Nam kết hợp với Mặt trận đoàn kết dân tộc Campuchia lật đổ chế độ Pôn Pốt năm 1979, giải phóng nhân dân thoát khỏi chế độ bạo tàn diệt chủng.

  • LTS: Cách đây chưa lâu, báo Bulledingue (BD) của phong trào sinh viên trong tổ chức Hội Người Việt Nam tại Pháp, có tổ chức phỏng vấn giáo sư Hoàng Xuân Hãn trên hàng loạt vấn đề thuộc lĩnh vực văn hóa, xã hội. Nội dung trả lời của giáo sư có thể giúp độc giả Sông Hương một số dẫn liệu mới hoặc gợi mở những cuộc trao đổi tranh luận bổ ích. Vì vậy, với sự đồng ý của giáo sư Hoàng Xuân Hãn, Sông Hương xin trích giới thiệu nội dung cuộc phỏng vấn này với độc giả.