Điện Hòn Chén nằm trên vực nước sâu nhất của dòng sông Hương, ở một vị trí khá đặc biệt về địa cuộc phong thủy, nơi tương truyền có một nữ thần hiển linh thường hiện về đó hằng năm khi mùa thu tới…
Một ngọn núi xuất thần
Núi Hòn Chén được tạo hóa sinh ra giữa cảnh sắc mơ màng của sông Hương – nơi dừng chân của một dãy non ngàn xuất phát từ hướng tây bắc của Trường Sơn chạy lại. Đại Nam nhất thống chí mô tả “dãy non ngàn” ấy có dáng dấp “trùng trùng điệp điệp như rồng đi hổ phục” về phía kinh thành Huế, đến tả ngạn sông Hương thuộc làng Hải Cát, huyện Hương Trà đột ngột “nhô cao lên thành một ngọn núi đẹp và tròn như hình cái chén (Hòn Chén) gọi là núi Ngọc Trản (núi Chén Ngọc)”.
Đối chiếu sách địa lý toàn thư của cụ Tả Ao, chúng ta sẽ có những liên tưởng gần gũi với sơn thủy quanh vùng đó. Chẳng hạn cụ Tả Ao chỉ rõ: nếu long mạch chạy từ dãy núi lớn ra, nhấp nhô mềm mại suốt đường đi của mình thì khi kết lại nơi đâu, ở đó sẽ xuất hiện những con người thanh lịch tuấn tú (mạch lai duyên giang duyên khê, ủy đà khuất khúc, tử tôn thanh tú); Cao Trung giải: “Nếu nhìn chung long mạch đi uyển chuyển ven sông, ven suối với dáng thướt tha, khuất khúc (dịu dàng đẹp mắt) cho ta biết nếu có đất kết thì sẽ sinh người thanh tú, không thô kệch”.
Ngược lại, long mạch đi thẳng tuột như con lươn nằm chết, như que củi cứng đơ, hoặc như con cá khô phơi dưới nắng bất động, nếu kết ở đâu ắt nơi đó sẽ thiếu sinh khí (tử thiện tử ngư tối hung). Vậy long mạch phải sống động như “rồng đang uốn lượn, rắn đang phóng mình tới trước” tựa thế trườn đi của dãy Uyển Sơn khi ẩn khi hiện, về tới bờ bắc sông Hương vọt lên thành ngọn Hòn Chén một cách xuất thần hiếm thấy.
![]() |
Ngọn núi cũng tiềm ẩn ý nghĩa “âm dương hợp nhất”, viên mãn vẹn tròn (nhất thể) và không hai (bất nhị) ngay trong hai tên gọi về mình. Được gọi Ngọc Trản (theo Quốc sử quán triều Nguyễn) vì trên đỉnh có sẵn khoảng đất trũng xuống trông như hình một cái chén ngửa ra giữa trời, với miệng rộng chừng vài mét đường kính, vào những ngày mưa lớn nước đọng lại trong xanh như ngọc. Được gọi Hòn Chén (theo dân gian) vì thấy xa xa “ngọn núi đẹp và tròn” hiện lên như cái chén úp lưng trời.
Hai cách gọi trên gợi hình ảnh về một cái “chén úp” (đỉnh tròn) và một cái “chén ngửa” (trũng nước trong) của cùng một địa cuộc. Tuy là hai (tên gọi) nhưng dùng để chỉ một thực thể (núi) với tướng trạng hiện hình theo thế “úp” và “ngửa” khác nhau, dẫn đến suy ngẫm về sự tương tác của những cặp đôi khác như: âm và dương, sơn và thủy, sáng và tối, hữu và vô – vốn là những thuộc tính của một “vùng đất sống”: Hòn Chén. Ở đó, ngoài cảnh vật nên thơ còn bao phủ vẻ huyền bí bởi các truyền thuyết và bởi ngôi đền cổ dựng bên sườn núi cheo leo để thờ vị thần tối cao của người Chăm mà Dương Văn An nhắc đến trong Ô châu cận lục giữa thế kỷ 16. Đến đầu thế kỷ 19, vua Gia Long sắc phong nữ thần thờ ở đền là: “Hồng Nhân Phổ Tế linh ứng thượng đẳng thần”. Vua Minh Mạng tu sửa đền khang trang thêm. Vua Tự Đức phong “Thượng đẳng tối linh thần” và thượng thư bộ Lễ đương thời là Phan Thanh Giản ghi lại nguồn gốc, quê quán và hành trạng của nữ thần Thiên Y A Na (thờ ở Hòn Chén) bằng chữ Hán trên tấm bia đá khắc năm 1856 (hiện còn dựng ở tháp Bà – Nha Trang):
“Thiên Y tiên nữ ban đầu giáng linh ở núi Đại An, nay là xã Đại An tỉnh Khánh Hòa. Đất này gần thì giáp với cù lao Huân, ngoài xa thông với biển cả, bao bọc núi non, biển biếc, động thiên, đúng là chốn di tích của các bậc tiên linh xưa vậy (…) Có hai vợ chồng ông lão không con, dựng nhà bên triền núi. Hễ ruộng dưa trái vừa chín là bị người hái trộm. Ông lấy làm lạ rình xem thì thấy một bé gái độ mươi mười tuổi ôm dưa chơi ở dưới ánh trăng, bèn đến gần hỏi tới ngọn nguồn. Vì thương bé ít tuổi mà sớm côi cút nên mang về nuôi nấng như con ruột… Một hôm lũ núi, mưa nguồn ập tới, nàng chợt nhớ cảnh cũ Bồng Lai…” (Lý Việt Dũng dịch, Thông tin Khoa học và công nghệ, số 2, Huế 2000).
Nhớ Bồng Lai vì cô gái ấy là tiên nữ giáng trần, đã từ núi Đại An nhập vào khúc gỗ kỳ nam trôi ngược ra Bắc. Ngày kia, một hoàng tử vớt được đem về, thấy có cô gái đẹp bước ra từ thân gỗ kỳ nam với những nét buồn bí ẩn. Hoàng tử không hề biết trước mặt mình là một tiên nữ mà thức ăn hằng ngày thích nhất của nàng là âm nhạc và hương thơm của các loài hoa mới nở.
Thế nhưng nay xuống làm người, nên tiên cũng đồng ý ngồi vào tiệc cưới, kết hôn với hoàng tử theo lời đã ngõ. Ăn ở với nhau có hai mặt con, tiên nữ nhớ nhà về lại phương Nam, đến cù lao Huân tìm cha mẹ nuôi nhưng hai cụ đều qua đời. Tiên nữ ở lại dạy dân làm nghề, khai khẩn ruộng vườn rồi “giữa ban ngày cưỡi chim loan bay lên cõi tiên”.
Hoàng tử nhớ vợ, dẫn đội thủy binh vượt biển đi tìm, khi đến nơi binh lính phía Bắc của hoàng tử tỏ ra hung bạo ngược đãi dân làng, không tôn kính tượng nữ thần để lại, nên đã bị trừng phạt “từ đó bà hết sức hiển linh, thường qua lại nơi đảo Yến, đỉnh Cù cứu nhân độ thế. Ai cầu gì ứng nấy, dân chúng tôn bà là thần, gần xa nhất nhất lập thần chủ cầu cúng… Người xưa gọi bà là Thiên Y A Na Diễn Phi, Chúa Ngọc Thánh Phi” (tài liệu đã dẫn).
![]() |
Đường lên điện Hòn Chén |
Sau văn bia trên của Phan Thanh Giản, nhiều tác giả khác như các vị Thái Văn Kiểm, Bửu Kế, Trần Văn Toàn, Nguyễn Thế Anh, Quách Tấn, Hoàng Trọng Miên… bàn đến sự tích Thiên Y A Na phần đông cho đó là dị bản của dạng hình truyền thuyết về nữ thần Poh Nagar – vị thần Sáng tạo, bà Mẹ xứ sở của người Chăm – được tiếp nhận vào hệ thống các thần của người Việt để “hóa thân” thành nữ thần Thiên Y A Na.
Bà thường đứng trên đám mây trắng nõn như lụa hiện lên giữa nền trời cuối thu, hoặc theo bóng cầu vồng ngũ sắc xuống lưng chừng núi, hoặc ngồi trên lưng con bạch tượng mang theo hương thơm của kỳ nam từ rừng sâu đi ra. Không chỉ dân chúng thờ kính, mà cả loài vật cũng vậy, cứ hàng năm vào một ngày đặc biệt bỗng có “nhiều loài thú rừng kéo đến, cùng các loài cá ngoài khơi bơi vào, tất cả nằm chầu yên lặng trước đền thờ của nữ thần như chừng chúng rủ nhau đến dự ngày kỵ giỗ bà theo cách của chúng” (Đào Thái Hanh – BAVH 1914).
Một trong những nơi bà xuất hiện là làng Hải Cát với đền thờ dựng trên núi Ngọc Trản, phía trước có “một cái vực sâu hoắm, dưới đáy vực ấy tương truyền là hang của thủy tộc, và có một con rùa to lớn cỡ bằng chiếc tấm chiếu, mỗi lần nó trồi lên mặt nước là gây nên sóng to gió lớn mà người ta cho đó là sứ giả của Hà Bá phái lên” (ĐNNTC).
![]() |
Chánh điện |
Vua Đồng Khánh với âm vang của cuộc đất thiêng
Theo chỉ dẫn của khoa địa lý gia truyền ở Việt Nam, có thể xét hình thế những ngọn núi hoặc điệu chảy các dòng sông để rút ra nhận định về một cuộc đất tốt hay xấu dưới góc độ phong thủy. Như nhìn ngọn núi có đầu tròn như cái hốt mà các vị quan thường cầm khi đứng chầu vua, hoặc thấy một dãy đồi nhấp nhô kết liền nhau như một xâu chuỗi bằng đá quý, hoặc ngọn núi có hình như nửa mặt trăng với thanh khí sáng sủa bao quanh, thì biết nơi ấy sẽ sinh nên những người con gái đẹp vào hạng cung phi (châm hốt hoặc liên châu, bán nguyệt, nữ xuất cung phi).
Hoặc trong ngọn núi giống như đầu một con người có cái búi tó đằng sau, tức là đỉnh có hai gò, một gò cao lên tựa đỉnh đầu, một gò thấp hơn nằm kề bên, trông xa như người có búi tóc kết lại, thì nơi ấy sẽ sinh nên trạng nguyên, phò mã (hoặc như cáo trục, trạng nguyên, phò mã)… Những điều cụ Tả Ao nêu trên giúp chúng tôi một cách nhìn về Hòn Chén với vùng phụ cận trải dài đến gò Hà Khê (nơi chùa Thiên Mụ tọa lạc) để bắt gặp trong ký ức những hình ảnh vàng son của dinh trấn Phú Xuân, những phủ đệ oai nghiêm với các nhà vườn đặc trưng, cùng những mỹ nhân Kim Long đã đi vào giai thoại.
Nhưng giờ đây, hãy trở về với điện Hòn Chén, nơi nhà Nguyễn sửa sang tôn kính kế tiếp nhau suốt hơn trăm năm, như thời vua Duy Tân đầu thế kỷ 20 sắc phong: “Thiên Y A Na Ngọc Diễn Phi tối cao đẳng thần”.
![]() |
Vua Đồng Khánh (1886-1889) |
Song, qua các vua đời Nguyễn, vận hội mới huy hoàng nhất đến với núi Ngọc Trản và điện Hòn Chén là vào thời vua Đồng Khánh (1886 – 1889). Vua đã nghe kể về một số linh ứng của nữ thần, như chuyện hoàng phi của vua Thiệu Trị vô ý đánh rơi chiếc ống nhổ bằng vàng xuống vực sâu trước điện Hòn Chén bèn van vái thánh mẫu Thiên Y A Na giúp mình. Ngay đó điều kỳ diệu xảy đến: chiếc ống nhổ bằng vàng bị chìm dưới đáy sông đã trồi lên mặt nước. Nhưng tác động mạnh nhất vào niềm tin của vua Đồng Khánh đối với nữ thần là việc mẹ ông (bà Kiên Thái Vương) đến cầu đảo xin mách bảo việc con bà có được lên ngôi vua hay không và nữ thần cho biết ông sẽ làm vua nay mai.
Sự việc xảy đến đúng như thế nên sau ngày lên ngôi (năm 1886), Đồng Khánh đã nâng “đền Hòn Chén” lên thành “điện Huệ Nam” (ân huệ cho nước Nam), cho xây cả chục công trình với Đệ nhất cung Minh Kính cao đài để thờ thánh mẫu Thiên Y A Na (sau năm 1954 thờ thêm thánh mẫu Vân Hương tức Liễu Hạnh công chúa), mỗi năm tế lễ hai kỳ vào mùa xuân và mùa thu. Có nhận định cho rằng nữ thần Thiên Y A Na được đồng hóa với sơn thần Ngọc Trản (vốn có trước đó trong thần tích địa phương) như:
“Sự xuất hiện của nữ thần Thiên Y A Na trong hệ thần ở điện Huệ Nam (Hòn Chén) có liên hệ đến sự ra đời của ngôi làng Hải Cát bên cạnh. Theo truyền thuyết, Thiên Y A Na là thần đỡ đầu của làng Hải Cát. Chính vì muốn có một ngôi đền lớn trên núi Ngọc Trản nằm ở bìa làng, cho nên nữ thần quyết định mỗi năm trở về một lần vào mùa thu với những đám rước nhộn nhịp bằng đường bộ và đường thủy” (Nguyễn Hữu Thông – Thông tin Khoa học và công nghệ số 4, Huế 1995).
Những kỳ tế lễ như thế được vua Đồng Khánh nâng lên hàng quốc lễ do đại diện của triều đình làm chủ lễ. Về cuộc rước Nghinh thần vào mùa thu những tác giả trong và ngoài nước như ông H. Délétie cùng ông Nguyễn Đình Hòe đều có bài tường thuật khá sinh động trên BAVH 1915, đại ý ghi nhận những đêm trăng lên đồng ở điện Hòn Chén đã “tỏa sáng một góc trời tâm linh để chúng ta có thể nhìn thấy một chút gì bí ẩn vẫn giữ kín lâu nay ở cõi xa vời vợi”.
Sau ngày tôn tạo “đền” (Hòn Chén) thành “điện” (Huệ Nam) khoảng hơn hai năm, vua Đồng Khánh qua đời vào 27 tháng chạp Mậu Tý (28.1.1889) lúc mới 25 tuổi, ở ngôi 3 năm. Con của vua có 6 hoàng nam và 4 hoàng nữ, trong đó con trai trưởng sau này lên ngôi là vua Khải Định (1916 – 1925). Ảnh của vua thờ ở Đệ nhất cung Minh Kính cao đài. Tên của vua lấy đặt cho một trường nữ trung học ở Huế và trường này trở nên nổi danh khắp miền Nam giữa thế kỷ 20.
Nhất là những năm của thập niên 1960 – 1970, nữ sinh Đồng Khánh nổi bật trong phong trào đấu tranh yêu nước ở đô thị với những đêm không ngủ vì quê hương, những cuộc bãi khóa, xuống đường nóng bỏng, mà khói lửa và bạo lực không đốt cháy được hình ảnh của những chiếc nón nghiêng, của tà áo trắng để vẫn dịu dàng đi vào thơ Trần Quang Long: “sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón” và cả trong âm nhạc nữa, với câu hát lãng mạn nhẹ nhàng một thuở về “cô nữ sinh Đồng Khánh kia ơi – cô đi về đâu sau buổi học này”…
Theo Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Trương Vững, Gia Tiến, Tư liệu
Hưởng ứng Ngày thơ Việt Nam lần thứ X tại Thừa Thiên Huế, tối ngày 06/2 (Rằm tháng Giêng Nhâm Thìn), Phòng Văn hóa & Thông tin thị xã Hương Trà, Câu lạc bộ thơ Sông Bồ đã tổ chức đêm thơ Nguyên tiêu với chủ đề Sông Bồ một miền thơ.
SHO - Nhân ngày thơ Việt Nam lần thứ X, tối ngày 05/02 (14 tháng Giêng năm Nhâm Thìn), tại Nghinh Lương Đình, Huế đã diễn ra chương trình Thơ Nguyên Tiêu với chủ đề Âm vọng thời gian.
SHO - Sáng ngày 05/2 (14 Tháng Giêng năm Nhâm Thìn), Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật và Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế đã tổ chức chuyến đi Viếng mộ thi nhân tại các nghĩa trang trên địa bàn thành phố Huế và Hương Thủy tưởng nhớ các văn nghệ sĩ đã khuất .
SHO - Chiều ngày 31/01, tại tòa soạn Tạp chí Sông Hương đã diễn ra bế mạc phòng triển lãm tranh Xuân về trên Phá Tam Giang của họa sĩ Đặng Mậu Triết và trao tranh cho những người yêu nghệ thuật đã gắn nơ sưu tập.
SHO - Sáng ngày 31/01 (mồng 9 tháng Giêng năm Nhâm Thìn), tại Trung tâm Văn hóa Huyền Trân, núi Ngũ Phong, phường An Tây, thành phố Huế, Lễ hội Đền Huyền Trân năm 2012 đã chính thức khai hội.
SHO - Chiều ngày 30/01, tại Trung tâm Văn hóa Thông tin tỉnh, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thừa Thiên Huế đã tổ chức buổi Lễ Khởi động Năm du lịch Quốc gia Duyên hải Bắc Trung Bộ - Huế 2012.
So với nhiều địa phương trong cả nước, biểu tượng về Rồng của Huế khá phong phú và đa dạng. Nhân năm Nhâm Thìn sắp đến, người viết xin liệt kê những cái nhất về Rồng của Huế để bạn đọc có dịp thưởng lãm và suy ngẫm.
SHO - Hòa vào không khí tết Nhâm Thìn rộn ràng, thịnh vượng đang bừng tới, ấn bản Tạp chí Sông Hương số tết Nhâm Thìn đã đăng tải những bài viết xoay quanh những chủ đề nóng hổi và hấp dẫn của năm mới mang biểu tượng con Rồng. Với trang bìa độc đáo, sáng tạo của hình tượng Rồng trong tranh vẽ rồng ở chùa Diệu Đế nổi tiếng, được đánh giá là một trong những ấn phẩm đẹp, mới lạ tại Hội báo Xuân 2012 vừa rồi. Sông Hương trân trọng gửi đến quý độc giả những bài viết, tác phẩm tràn đầy âm hưởng xuân.
Đó là tên phòng triển lãm tranh của 8 họa sĩ Cố đô được khai mạc vào chiều ngày 19/1 tại Gallery Sông Như, số 14 kiệt 7 đường Nguyễn Công Trứ, Huế.
SHO - Chào mừng Xuân mới 2012 và Tết Nhâm Thìn, chiều ngày 16/1 (23 tháng Chạp), Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Tạp chí Sông Hương, Hội Mỹ thuật Thừa Thiên Huế phối hợp tổ chức phòng Triển lãm tranh Xuân về trên Phá Tam Giang của họa sĩ Đặng Mậu Triết.
Chào mừng năm mới 2012, chiều ngày 16/1, Liên hiệp Các hội VHNT, Hội Mỹ thuật Thừa Thiên Huế phối hợp tổ chức triển lãm mỹ thuật Xuân Nhâm Thìn 2012 tại 26 Lê Lợi, Huế.
SHO - Sáng ngày 16/1, Hội Nhà báo, Sở Thông tin Truyền thông, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế phối hợp tổ chức khai mạc Hội báo xuân Nhâm Thìn 2012 tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, số 7 Lê Lợi, Huế.
SHO - Sáng ngày 11/01, Tạp chí Sông Hương và Tạp chí Văn nghệ Quân đội đã trao giải Cuộc thi Thơ Lục bát 2010 - 2011, buổi trao giải diễn ra trong dịp Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức lễ kỷ niệm 55 năm ngày ra số tạp chí đầu tiên, tại hội trường Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Sáng ngày 5/1, Liên đoàn Lao động tỉnh và Hội Nhà vănThừa Thiên Huế tổ chức buổi gặp mặt và phát động cuộc vận động sáng tác về đề tài “Công nhân và Công đoàn” giai đoạn 2010 - 2014.
SHO - Chào mừng năm mới 2012, tối ngày 01/01, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh đã tổ chức chương trình “Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đồng hành cùng di sản” nhằm tôn vinh văn học nghệ thuật của vùng đất Cố đô, diễn ra tại tại Nhà Văn hóa thành phố Huế.
Sáng ngày 30/12, Tạp chí Sông Hương đã tổ chức gặp mặt cộng tác viên và trao tặng thưởng Sông Hương năm 2011, diễn ra tại tòa soạn Tạp chí, số 9 Phạm Hồng Thái, Huế.
Chiều 21/12, Liên hiệp các Hội VHNT, Hội Mỹ thuật Thừa Thiên Huế và trường Đại học Nghệ thuật Huế phối hợp tổ chức khai mạc triển lãm ảnh “Câu chuyện của dòng sông”.
Chiều ngày 17/12, Hội nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp với New Space Arts Foundation tổ chức buổi ra mắt tập sách“Cổ tích tàu không số” của nhà thơ Ngô Minh tại Trung tâm Văn hóa Phương Nam – Làng nghề Huế (15 Lê Lợi, Tp. Huế).
“Đào tạo chuyên ngành âm nhạc dân tộc học tại Học viện âm nhạc Huế” là chủ đề Hội thảo do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Học viện Âm nhạc Huế tổ chức, diễn ra trong hai ngày 15 và 16/12, tại số 1, Lê Lợi, Huế.
Nằm trong chuỗi hoạt động kỷ niệm 60 năm ngày truyền thống Mỹ thuật Việt Nam (10/12/1951 - 10/12/2011), chiều 11/12, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật phối hợp với Hội Mỹ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức khai mạc phòng triển lãm tranh “Mười Mười Hai” diễn ra tại 26, Lê Lợi, Huế.