GIÁNG VÂN
Tôi gọi chị là “ Người truyền lửa”.
Dịch giả Nguyễn Hồng Nhung
Duyên dáng, mẫn tiệp, hào phóng, người phụ nữ đã lục tuần này vẫn có sức thu hút, quyến rũ một cách lạ lùng. Tôi lần đầu tiên biết đến chị vì mê Hamvas Bela qua tác phẩm “Câu chuyện vô hình và đảo” mà chị là dịch giả.
Tuy nhiên, phải đến lần chị về Việt Nam năm 2014, trong sự kiện tọa đàm về “Trinh nữ ma-nơ- canh” của tác giả Lê Anh Hoài. Chị ngồi hàng ghế dưới, áo khoác sẫm mầu và chiếc khăn quàng dài màu sáng duyên dáng, cặp mắt sáng rực với một thần thái đặc biệt. Tôi phát hiện ra đó chính là dịch giả của “Những câu chuyện vô hình và đảo” và những tác phẩm khác nữa của văn học Hungary.
Chúng tôi nhanh chóng quen nhau. Khi đó tôi còn là người phụ trách của Trung tâm văn hóa Heriage Space, đã nhanh chóng đề nghị với chị một cuộc nói chuyện về Hamvas Bela tại Trung tâm. Ơn trời là sau vài trục trặc, talk show được thực hiện và thành công.
Khán giả của chị hôm đó, cũng như trước và những cuộc về sau mà tôi có tham dự, chủ yếu là những người trẻ, những trí thức trẻ ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Tôi cũng nhìn thấy vẻ mặt hạnh phúc của họ khi được trò chuyện với chị. Họ liên tục đặt ra cho chị những câu hỏi về Hamvas Bela, những vấn đề triết học hấp dẫn họ nhưng không hề dễ hiểu, về công việc và cuộc sống của chị.
Điều làm cho họ (cũng như cho tôi) kinh ngạc chính là sức làm việc phi thường của chị. Ngoài công việc kiếm sống và chăm sóc con cái, mỗi một năm chị dịch hàng ngàn trang với những tác giả khó nhằn nhất của văn chương và triết học xứ này. Đó là chưa kể đến việc hầu như không ngày nào chị không viết, không ghi chép, làm thơ và dịch thơ. Có những ghi chép như một tản văn, hoặc như một tiểu luận văn chương.
Chị thường ngủ sớm vào khoảng 10 giờ, và hôm sau dậy rất sớm. Mở đầu cho một ngày, chị dịch thơ, hoặc làm thơ, hoặc viết một điều gì đấy. Sau đó, chị ăn sáng nhẹ nhàng rồi tập thiền dưới ánh nắng mặt trời trên ban công của ngôi nhà, mà chị bảo, ánh nắng ở đó rất nhẹ, chứ không tràn ngập một cách quá độ như Việt Nam.
Rồi, nếu không phải lên lớp, (chị là giáo viên dạy tiếng Việt tại Đại học Tổng hợp Budapes, và kiếm sống bằng công việc này) chị bắt đầu công việc dịch thuật. Với chị tất nhiên, đó là một công việc nặng nhọc nhưng vô cùng thú vị. Chỉ khi nào cảm thấy quá tải, chị mới tự cho phép mình trốn khỏi thành phố để một mình lang thang, để lấy lại sức lực và sự cân bằng.
Điều gì khiến chị có thể say mê đến mức, bỏ qua rất nhiều thứ hấp dẫn khác để làm công việc này thế?
Chị bảo, rất buồn cười là từ khi còn là một cô bé con, chị đã mê sách, mê những câu chuyện của Grim, của Andecxen đến nỗi, vào năm lớp bốn, chị tuyên bố với bố mẹ, sau này con sẽ trở thành nhà văn (!). Tất nhiên mọi người đều chỉ coi đó như một câu chuyện của trẻ con, trong khi chị thấy nó hết sức nghiêm túc.
Rồi chị là học sinh chuyên văn của Hà Nội từ lớp bốn đến hết phổ thông. Khi sang Hungary, tất cả lớp sinh viên Việt Nam của chị lúc đó đều được phân công học ngành xây dựng để khi hết chiến tranh, trở về xây dựng đất nước. May sao, sứ quán “xem xét lại” chị và một số bạn học trong đó có nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học Trương Đăng Dung, bạn đồng môn, được chuyển sang học ngành Ngôn ngữ và Văn học Hungary.
Tuy nhiên cuộc đời với những thăng trầm, biến cố, những khó khăn của đất nước, của cá nhân đã kéo một Nguyễn Hồng Nhung nồng nhiệt, tự tin rời xa những mơ ước của mình, lặn ngụp trong cái bể dâu đau thương của đời người như biết bao những số phận Việt Nam xa xứ khác, mặc cho trong lòng không ngừng day dứt.
Rồi một biến cố đến với chị vào năm 2010, đó là khi người chồng của chị mất vì bạo bệnh. Chị rơi vào tình trạng tuyệt vọng, cô đơn cùng cực, cảm giác trơ trọi, bị bỏ rơi, bị từ chối, bị ghét bỏ…
![]() |
Nhà văn Hamvas Bela |
Chị thuê một phòng trong một căn hộ ở Hà Nội, may sao được sử dụng một phần nhà kho trên tầng gần cao nhất của ngôi nhà, không tiện nghi, chăn màn sơ sài, giữa mùa đông lạnh cóng, chị dịch nốt tác phẩm đầu tiên sẽ xuất bản ở Việt Nam của Hamvas Bela: Câu chuyện vô hình và đảo.
Khi lạnh quá chị đun nước nóng cho vào túi cao su rồi để chân lên đó ngồi dịch tiếp, ăn đã có một nồi cơm điện cho gạo, bí đỏ vào nấu lẫn, hoặc bánh mỳ với… lạc.
Hình như Hamvas Bela đã cứu chị. Dịch xong cuốn sách, chị bắt đầu hy vọng. Chị hủy ý định trở về Việt Nam sống để quay lại Budapest.
Từ lúc đấy trở đi, Nguyễn Hồng Nhung quyết định trở lại với văn học, bất chấp mọi khó khăn về kinh tế vẫn còn đè nặng trên vai.
Nước Hung là quê hương thứ hai, cũng là số phận của chị. Từ khi mười tám tuổi, đánh vật với từng từ một, để đến khi nói được, hiểu được, viết được, biểu đạt được mọi trạng thái bằng thứ ngôn ngữ này, nhưng chỉ đến khi trải qua mọi thăng trầm của cuộc đời, chị mới nhận ra những điều rất đặc biệt của xứ sở này.
Nơi mà từ dãy Himalaya đã phóng chiếu xuống những luồng sáng đặc biệt, để mặt đất nơi đây luôn tươi tốt, đầy sinh khí. Điều này giống như một ân sủng kỳ diệu mảnh đất này có được. Không chỉ cây trái tốt tươi mà dưới lòng đất nơi đây có rất nhiều những mạch ngầm ấm nóng, chính là nước khoáng nóng thiên nhiên, khiến cho nó có một sức quyến rũ với bất cứ ai từng đặt chân đến.
Cũng từ nơi đây đã sinh ra những nhà thơ, những nhà triết học lừng danh, những nhà huyền môn, có thể thấu thị được thế giới, những người, mà theo chị, nếu đọc họ, ta có thể thay đổi chính mình.
Và chính là Hamvas Bela đã biến đổi chị. Biến một Nguyễn Hồng Nhung đau khổ, thất bại, đối nghịch với cuộc đời thành một người thấu hiểu, nhẫn nại, bao dung và đầy niềm vui sống, và luôn mọi nơi, mọi lúc, truyền niềm vui sống đó cho những người quanh mình.
Bởi vậy, dịch thuật với Nguyễn Hồng Nhung, cho đến thời điểm này, gần như một xác tín, giống như công việc của một thiên sứ, nhằm truyền đến mọi người những gì mà chị nhận được từ những con người vĩ đại mà chị yêu kính, như từ một Đấng Tối Cao.
Điều tôi thấy chị thường nhắc đi nhắc, bằng hình thức này hay hình thức khác, đó là trong mỗi chữ mình viết ra phải có cái tình trong đó. Tình NGƯỜI.
Một người viết ra những ý tưởng thông minh, sắc sảo, nhưng vô cảm đều không có giá trị. Một kẻ uyên bác, thông kim bác cổ nhưng không có cái tình, cũng sẽ không có cái để lại. Không dễ gì đánh lừa người đọc vì họ sẽ nhận ngay ra cái mà kẻ viết không có. Cũng nhờ vậy mà người ta có thể phân biệt được một người thông minh và một văn tài.
Tôi có thể trích bất kỳ một trang dịch nào đó của chị, cũng như một vài đoạn ghi chép của chị để bạn có thể cảm nhận được chị đã đặt tâm hồn của chị ở đó như thế nào. Đó là những trạng thái chú tâm tuyệt đối, giống như khi tập thiền, người ta phải chú tâm vào hơi thở vậy.
Bạn sẽ ngạc nhiên vì một thứ ngôn ngữ tươi rói cảm xúc, tươi rói các trạng thái mà tác giả trải qua. Cái đó có thể là một tài năng bẩm sinh, nhưng không ngừng được nuôi dưỡng và chăm sóc.
Tuy nhiên, tôi sẽ không trích, và sẽ để bạn tự tìm đến với các bản dịch cũng như các trang viết của chị.
Hiện nay, tại nhà xuất bản Tri Thức (53 - Nguyễn Du - Hà nội) vẫn tiếp tục bán những tác phẩm của Hamvas Bela mà chị đã dịch:
1/ CÂU CHUYỆN VÔ HÌNH VÀ ĐẢO (2013, 2014, 2016).
2/ MỘT GIỌT TỪ SỰ ĐỌA ĐÀY (2014, 2016).
3/ MINH TRIẾT THIÊNG LIÊNG (Trọn bộ 3 tập, 2016).
Và hy vọng tháng 12/2016 tới đây Trung tâm Văn hóa Đông - Tây sẽ tái bản thành công năm cuốn sách văn học cũng do chị dịch - Dịch giả NGUYỄN HỒNG NHUNG
Hà Nội 2016. September. 12
G.V
(SHSDB23/12-2016)
TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.
NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.
HÀ VĂN THỊNHTrong lịch sử của loài người, những vĩ nhân có tầm vóc và sự nghiệp phi thường chỉ có khoảng vài chục phần tỷ. Nhưng có lẽ rất chắc chắn rằng sự bí ẩn của những nhân cách tuyệt vời ấy gấp nhiều lần hơn tất cả những con người đang sống trên trái đất này. Tôi đã rất nhiều lần đọc Hồ Chí Minh Toàn tập, nhưng mỗi lần đều trăn trở bởi những suy tư không thể hiểu hết về Người.
HOÀNG NGỌC VĨNHHồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân và cộng sản quốc tế, Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam, là người Việt Nam đầu tiên soạn thảo và ban bố các sắc lệnh tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam.
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “Đá vàng” của Đinh Khương - NXB Hội Nhà văn 2004)
NGÔ XUÂN HỘITính tình phóng khoáng, Trần Chấn Uy chắc không mặn mà lắm với những cuộc chơi mà luật chơi được giới hạn bởi những quy định nghiêm ngặt! Ý nghĩ trên của tôi chợt thay đổi khi mở tập thơ Chân trời khát của anh, ngẫu nhiên bắt gặp câu lục bát: “Dòng sông buồn bã trôi xuôi/ Đàn trâu xưa đã về trời ăn mây”...
TRẦN THUỲ MAI( “Thơ Trà My” của Nguyễn Xuân Hoa - NXB Thuận Hoá, 2005)
HỒ THẾ HÀ(Đọc tập thơ Lửa và Đất của Trần Việt Kỉnh - Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà, 2003)
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO(Đọc tập ký ''Trên dấu chim di thê'' của Văn Cầm Hải- NXB Phương - 2003)
NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Huế trong thơ Nguyệt Đình)
NGUYỄN VĂN HOA(Nhà xuất bản Lao Động phát hành 2004)
PHẠM NGỌC HIỀNChưa lúc nào trong lịch sử Việt , các nhà văn hoá ta lại sốt sắng ra sức kêu gọi bảo tồn nền văn hoá dân tộc như lúc này. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế công nghiệp cộng với xa lộ thông tin đã mang theo những ngọn gió xa lạ thổi đến từng luỹ tre, mái rạ làm cho "Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều". Mà "Trách nhiệm của mỗi dân tộc là phải thể hiện rõ bản sắc của mình trước thế giới" (R. Tagor).
NGUYỄN THANH MỪNG Miền duyên hải Nam Trung bộ gần gũi với Tây Nguyên lắm lắm, Bình Định gần gũi với Gia Lai lắm lắm, ít nhất ở phương diện địa lý và nhân văn. Ừ mà không gần gũi sao được khi có thể chiều nghe gió biển Quy Nhơn, đêm đã thấm trên tóc những giọt mưa Pleiku. Giữa tiếng gió mưa từ nguồn tới bể ấy nhất thiết bao nhiêu nỗi lòng ẩn chứa trong tiếng thơ diệu vợi có thể chia sẻ, bù đắp được cho nhau điều gì đó.
NGUYỄN QUANG HÀSau ba tập: Thơ viết cho em - 1998, Lối nhớ - 2000, Khoảng trời - 2002, năm 2004 này Lê Viết Xuân cho xuất bản tập thơ thứ tư: Đi tìm.
NGÔ MINHThật may mắn và hạnh phúc là Hoàng Phủ NgọcTường đã vượt qua được cơn tai biến hiểm nghèo của số phận, để được tiếp tục đến với đọc giả cả nước trong suốt mười một năm nay. Đối với tôi, khi bên chiếu rượu ngồi nghe anh Tường nói, hay đọc bút ký, nhàn đàm, thơ của Hoàng Phủ là những lần tôi được nghe các “cua” ngoại khóa sâu sắc về nhân văn và nghề văn.
VÕ THỊ XUÂN HÀVào rằm tháng Giêng năm 2003 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, Ngày Thơ Việt Nam lần thứ nhất được tổ chức long trọng. Mở đầu bằng lễ kéo Lá cờ Thơ, rồi ngâm đọc bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh. Sau đó là các chương trình giao lưu thơ với công chúng, đọc những bài thơ hay nhất của đất nước, ngâm thơ, bình thơ v.v…
VÔNG VANGCó thể nói cùng với chiều dài lịch sử của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân, không thể và không khi nào mà khi nói đến nơi đây người ta lại không nhắc đến Thơ. Bởi vì ngoài “nhiệm vụ” là một bức thông điệp giúp cho ta biết hơn về lịch sử, về con người, Thơ còn giúp ta hiểu hơn về chính nó, về một ký ức lãng đãng đang trôi qua từ thẳm sâu trong trí nhớ, trong cái thăng hoa luân chuyển của vũ trụ và của chính con người.
TRẦN THÙY MAI(Đọc “Thơ của người cô độc” tập thơ của Tường Phong, NXB Thuận Hóa xuất bản)
TRẦN HỮU LỤCChân dung Huế (*) - tập bút ký nhân vật, là một trong 12 đầu sách liên kết giữa Tủ sách Nhớ Huế với NXB Trẻ.
BÍCH PHƯỢNG thực hiệnLTS: Trong dịp vào Huế thực hiện một số phim trong chương trình “Người của công chúng” (Đài Truyền hình Việt Nam), nhà báo Bích Phượng đã có dịp tìm hiểu tác phẩm, gặp gỡ trò chuyện với nhà văn Nguyễn Khắc Phê tại ngôi nhà vuờn xinh đẹp của ông trên đường Xuân Diệu. Ông đã trả lời một cách cởi mở và thẳng thắn những vấn đề đặt ra.