Dịch chuyển bất tận trong không gian thơ Lê Vĩnh Tài

10:38 24/06/2011
KHÁNH PHƯƠNG Lê Vĩnh Tài tự chẩn căn bệnh của thơ tình Việt Nam là “sến”, nghĩa là đa sầu đa cảm và khuôn sáo, bị bó buộc trong những lối biểu hiện nhất định. Rất nhanh chóng, anh đưa được lối cảm thức đương đại vào thơ tình, cái ngẫu nhiên, vu vơ, ít dằn vặt và không lộ ra chủ ý, dòng cảm xúc ẩn kín sau những sự vật tình cờ và cả những suy lý.

Nhà thơ Lê Vĩnh Tài - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Ẩn dụ “cái mặt nạ” chạy suốt serie thơ tình mới này, nói cho công bằng, không phải là phát hiện gì cả. Phát hiện của Lê Vĩnh Tài chỉ ở chỗ, nhìn ra những biến hóa, dịch chuyển bất tận của nó trong không gian thơ, nhiều khi tình cờ nhưng khá ngộ nghĩnh, đặc sắc, khá ấn tượng nữa. Vu vơ như lời con trẻ, bất thần và ít chủ ý như lối pha màu, dùng hình ảnh của một họa sĩ say, cộng thêm những hành động và phán đoán vụt hiện ngon trớn, Lê Vĩnh Tài sắp đặt lại một thế giới thuần khiết của cảm xúc và dấu ấn. Nhẹ nhõm, không lạm dụng cảm giác, và dễ dàng bộc trực những suy nghiệm cá nhân. Nói xa hơn một chút về điều hồ nghi của Lê Vĩnh Tài, “…sao phải mang mặt nạ”, “…quyền được rơi mặt nạ”… Hình như suốt cả khúc tứ tấu này nhà thơ vẫn băn khoăn chưa xác định được rõ ràng, thực ra “mặt nạ” là gì mà nhập nhằng suốt lúc đứng ngồi ăn nghỉ của con người đến thế. “Mặt nạ” chỉ khi yêu hay mọi lúc mọi nơi, với nhiều kiểu dáng kích cỡ cho nhiều hoàn cảnh thời điểm? Cái mặt nạ hay chính là điều chưa rõ ràng minh bạch trong mỗi cá nhân mà người ta chưa đủ bản lĩnh để thoát ra? Nhất là khi “yêu”?

Khi đọc “Chào buồn!” của Francoise Sagan, tôi bắt gặp hình ảnh một nước Pháp hào hoa, lịch duyệt và tinh tế, quy hàng vô điều kiện trước lối sống thực dụng, nhục dục và sự bất tri. Trong thế giới mông lung của sự vô minh, của những mặt nạ mọi nơi mọi lúc thì tình yêu cũng cần giống như giác ngộ. Nó thực sự cần đến bản lĩnh và nhân cách lớn chứ không phải những mặt nạ đời thường. Như thế, một điều tưởng chừng sẵn có và thông tục, như là… tình yêu, lại là thứ phải đạt tới một cách khó khăn nhất. Và với con người hiện tại, vấn đề không phải là chúng ta đã tiến hóa tới đâu hay thoái hóa tới đâu, mà là chúng ta, đã trung thực đến đâu. Điều tôi băn khoăn khi đọc “Ngang qua Festival Thơ, 2008” của Lê Vĩnh Tài, là những mệnh đề có vẻ không hoàn toàn ăn khớp với nhau (ví dụ: những câu phức của Huy ta đọc ngày về Huế/ như thể/ kinh thành rêu phong đã không còn lãng mạn/ không còn câu đơn giản/ những câu thơ bây giờ như súng đạn/ nhắm vào tai… - thì hai cặp ý nghĩa đối lập ở đây: câu đơn giản - câu phức hợp, sự lãng mạn - súng đạn nhắm vào tai, chưa biểu lộ rõ mối tương quan giữa từng thành phần nghĩa và quan hệ song hành của chúng, trong mạch tư duy và biểu đạt của nhà thơ). Theo chủ quan tôi, sự không tường minh của những suy nghiệm này phần nào phản ánh cái ngập ngừng lúng túng, kể cả do dự của nhà thơ trước ý tưởng thơ của chính mình, thì hợp lý hơn là một sự mơ hồ hay nhòe mờ cố ý về nghĩa. Bởi vì ngay cả sự mơ hồ lộn xộn hay vô nghĩa trong văn chương, cũng phải được hiển lộ một cách thông thoáng và logic.

Cái vu vơ, không nhất quán, không để lộ chủ ý, đã làm nên một Lê Vĩnh Tài hồn nhiên và duyên dáng trong loạt thơ tình “Mặt nạ” thì lại có vẻ như chưa đủ với thể tài gai góc, cần đến sự quyết liệt và minh bạch ở mức độ khá triệt để này. Nhưng đó chỉ là sự hạn chế không quá lớn, so với toàn thể bài thơ khá mạnh về hình ảnh và không gian, dòng vận động nội tại. Lê Vĩnh Tài có những hình ảnh rất “kinh hoàng”: “đời sống như căn phòng đóng kín và chúng ta loã lồ trong đó…”, “dang tay bắn ná/ con chữ vo viên mà mất mạng người…” hay “những đền đài đang sờ tay lên bụng/ trong bụng có trẻ con…”.

Đọc Lê Vĩnh Tài về chữ nghĩa giao tranh “mệt lả”, câu thơ “ngậm miệng” hay câu thơ “hết hạn”… bỗng nhiên tôi lại nghĩ đến cái quyền được im lặng của con người. Im lặng theo nhiều ý nghĩa, nhiều mục đích và hiệu quả khác nhau. Im lặng ngay cả khi tưởng chừng đang nói.

Ví như, tôi tình cờ được xem một cuốn phim tài liệu về đời tư thi hào Bertolt Brecht, do chính người Đức phục dựng. Nhà nghệ sĩ của thời cuộc, chính thể, và cả tri thức này, là một tay vô địch về khoản đàn bà. Mỗi người đẹp trong đời sống của ông đều hữu ích ở một tình huống cụ thể, người lo hộ chiếu, kẻ sắm ô tô, vào thời điểm khi ông phải đổi quốc gia nhiều hơn đổi giày. Các cô nàng, thậm chí còn đánh nhau vì ghen tuông ngay trước con mắt thờ ơ của ông. Chiến tranh thế giới II kết thúc, tên tuổi Bertolt Brecht nhanh chóng trở thành ánh hào quang tuyệt đối trên sân khấu văn chương thời cuộc nước Đức XHCN bấy giờ. Tháng 7 năm 1956, chính quyền Đông Đức đàn áp cuộc biểu tình của công nhân ngành cơ khí và dệt may bằng xe thiết giáp, vài chục người biểu tình đã chết. Người ta chờ đợi tuyên bố chính thức của B. Brecht như người đại diện toàn quyền của giới trí thức nhân sĩ. Và câu trả lời của ông là… Im lặng…

K.P

(267/5-11)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐẶNG TIẾN    

    Đầu đề này mượn nguyên một câu thơ Nguyễn Đình Thi, thích nghi cho một bài báo Xuân lấy hạnh phúc làm đối tượng.

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • LƯƠNG THÌN

    Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.

  • VƯƠNG TRỌNG

    Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).

  • NHỤY NGUYÊN  

    Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG

    Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).

  • THÁI KIM LAN

    Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
     

  • HOÀI NAM

    Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.

  • ĐỖ LAI THÚY   

    Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.

  • TRẦN NHUẬN MINH   

    Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).

  • YẾN THANH   

    “vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
    ngọn lửa phù du mách bảo
    vui buồn tương hợp cùng đau”

                     (Hồ Thế Hà)

  • Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.

  • NGÔ THẢO

    Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.

  • Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.

  • NGÔ MINH

    Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.

  • DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN

    Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.

  • NGUYỄN HIỆP

    Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.

  • Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.