Đi tìm mật ngữ "Rêu đá"

15:33 26/04/2010
NGUYỄN NHÃ TIÊNNgồi chung một chuyến xe trong một lần cổ ngoạn Mỹ Sơn, nhà thơ Hồng Nhu trao cho tôi tập thơ "RÊU ĐÁ", tập thơ thứ tư của anh do Nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản năm 1998.

Ảnh: voque.org

Hai mươi sáu bài thơ trong tập "rêu đá", không có bài thơ nào mang tên gọi của tập thơ. Cũng không một lời tựa, một lời dẫn nhập nào. Rêu đá là rêu đá. Dường như ý niệm của thi sĩ là lớp lớp thời gian vây kín phủ che lột một yên lặng ngàn đời. Và cũng chỉ chính thi sĩ là người biết đánh thức sự yên lặng đó dậy theo cách riêng của mình. Đó là thi ca đích thực không hề bận lòng đến mọi xưng tụng để xác lập một hành trình cô đơn theo cái ý hướng: Thế giới là cái nhìn của tôi, chiêm nghiệm trong lặng yên và cũng đối thoại trong sự lặng yên.

            Để lại sau lưng khoảng lặng đáng ngờ
            Một quẻ bói âm dương dật dờ thấp thỏm.
                                            (Đuôi chồn)

Có lẽ, xưa nay bất cứ thi sĩ nào cũng đều chung nhất một quan niệm: Trước khi thi pháp học song hành với văn chương, với thơ, thơ đã có mặt bên trong, nói cho tuyệt đích - thơ đã có mặt trong giọt máu sinh thành thi sĩ. Tất cả mọi ngôn từ, màu sắc, âm thanh..., kể cả thời gian đều là phương tiện cho thi ca hành trình theo từng ý hướng tự nội. Vượt lên trên mọi thường nghiệm, chiều hướng của thơ đích thực, dù trường phái nào chăng nữa, vẫn có đủ đặc trưng ý hướng tính (intentionalité), của đạo hạnh (éthique) và của tu đức (ascèse). Không một thi sĩ nào được khai sinh trong con người rỗng tuếch, hào nhoáng lớp ngôn ngữ bóng bẩy tụng xưng thi pháp. Ý hướng tính tức là nguyên khởi từ cái giọt máu thi sĩ kia và hướng tới. Đích tới của chiều hướng nầy là hướng tới khác, và vì thế thơ không ngừng vận động trong sự huyền nhiệm của thế giới hợp hôn cùng mỗi cái tôi của thi sĩ.

"Rêu đá" của Hồng Nhu có dáng vẻ mỏng mảnh, và hình như không đồ sộ so với cả khối lượng tác phẩm thơ và truyện của anh đã từng xuất bản. Nhưng trong sáng tạo văn học, ít hay nhiều chưa phải là cái quyết định. Khi đối diện với bản thảo khó mà lường được số phận từng tác phẩm sẽ về đâu. Có điều, trong niềm hoan lạc với thi ca, hạnh phúc hơn hết thảy hạnh phúc là cái men say của cảm xúc đã đưa thi sĩ thoát ly con người "một khối thịt xương", thăng hoa vào một thế giới mới đầy cô đơn lạ lẫm. Nói như thi sĩ Hoàng Cầm, khi ông tâm sự về lý do sự ra đời bài thơ "Bên kia sông Đuống". Tôi có cảm giác như ai đó đọc véo von bên tai tôi và thế là tôi ngồi dậy viết (trong khi nhà văn Nguyên Hồng nằm cạnh ông vẫn thẳng giấc ngáy khò khò), viết mà tưởng như không ghi chép kịp theo nguồn cảm xúc trào tuôn lênh láng. Phải chăng đó là cái đẹp hết sức vi diệu mà chỉ có bản thân thơ ca có được trước mọi loại hình nghệ thuật khác. Vượt ra ngoài nó nghĩa là ra ngoài thơ. Mà đã ra ngoài thơ thì nó thuộc một hình thái khác.

"Rêu đá" trước hết là sự kết nối của nhiều khoảnh khắc lạ lẫm, gợi mở sự tìm kiếm khám phá. Từ "Đêm thủy trúc" đến "Đêm Hàng Châu nghe tiếng chim bắt cô trói cột", có vẻ như thiên nhiên lúc nào cũng thường trú một bí ẩn, một huyễn tưởng, sẵn sàng chờ đợi cái nhãn quan thi sĩ đánh thức. Đi bên cạnh anh trên đường vào Mỹ Sơn, tôi hỏi: "Bên Hàng Châu Trung Quốc mà cũng có loài chim Bắt cô trói cột hở anh?". Anh Hồng nhu gật đầu bảo: "Nó cũng kêu y như ở mình vậy". Thiên nhiên quả kỳ diệu, sông suối, cỏ hoa, chim chóc dường như không hề có biên giới. Thực ra mỗi tiềm ẩn trên từng sự vật đầy rêu xanh kia vốn vô tình và vô cảm cả những vô tri. Nó đẹp, nó buồn thậm chí nó trò chuyện cùng người đều từ giọt máu thi sĩ truyền sinh cho nó. Vén từng lớp rêu lãng mạn ấy lên tôi lại gặp "Phong Nha", "Đan Thiềm", "Bạch hạc"...

            Không tìm ra ai để lạ
            rêu xanh um nơi bậu rễ anh ngồi
            cây quá biết chân dung người của đá
            dưới gốc nầy một phiến gọi mồ côi
.
                                        (Trứng cá)

Giải mã những thanh âm của cây lá, sự yên lặng kỳ bí của sự vật, nhà thơ nầy có thể diễn giải ra một niềm vui, thi sĩ kia lại có thể phát hiện ra một nỗi buồn. Dù tiếng nói nào chăng nữa thì sự hiện hữu kia chính là tôi hiện hữu cùng thế giới của tôi. Nó có thể mê hoặc một hạnh phúc hay thảng thốt không ngờ một nỗi đau đều tạo nên một thăng hoa đượm màu siêu (méta) và hình (physique), hai thuộc tính mà ta hay bắt gặp trong thơ Hồng Nhu:

            Vầng trăng ấy mãi không thôi quẫy cựa
            mắc liềm vào nhòa nhạt tháng ngày xưa
            bờ dương liễu vẫn ngây thơ đứng tựa
            cát trảng bay thoáng dợn bóng ai vừa...

                                        (Cát trắng)

Cùng lội bộ 3 km đường núi đồi vào đến Mỹ Sơn trong một buổi sớm mưa mỏng lay phay và nắng lộn lẫn vào nhau. Nhìn dáng anh Hồng Nhu phất phơ mái tóc bạc, vừa như cắm cúi háo hức vừa như nhẹ tênh thảnh thơi cổ ngoạn. Tôi nghĩ thầm: "Giá như anh có mặt nơi nầy sớm hơn, chắc chắn rêu Mỹ Sơn sẽ nói với anh được điều gì đó như anh từng gặp" Mưa trên sông Tiền Đường" hoặc là "Đọc thơ Đường ở Văn Thái Các". Nhưng điều đó chắc rồi sẽ xảy ra, tôi tin là thế bởi trong con mắt mơ màng kia, đã từng ngồi cuối thế kỷ 20 lại vẫn nghe ra tiếng nức nở "Tỳ bà hành" đâu tận bến Tầm Dương xa lắc, thì nói gì Mỹ Sơn nầy đầy ắp những vị thần nhan sắc rực lửa apsara...

Ngôn ngữ của thơ Hồng Nhu không bao giờ có sự nắn nót cầu kỳ, cũng không dễ từ ruột gan tuôn ra lênh láng. Những khoảnh khắc xuất thần, đầy mê say cứ lặng lẽ phát tiết một cách phiêu bồng hồn nhiên có lúc chểnh mảnng thiên nhiên trong veo thanh khiết. Những điều ấy tôi đã gặp cách đây khá lâu khi anh đối thoại cùng Hội An như mơ như thực "Hội An em hay của Hội An nào". Đó cũng là thứ "rêu đá" trên một cuộc rong chơi không hẹn ước với bất cứ hẹn ước nào. Hội ngộ bất ngờ, chia tay không dự báo, thế giới ấy yên lặng phẳng lờ chợt đột ngột bùng vỡ vô vàn những thanh âm. Muốn nghe được những thanh âm ấy không thể nghe bằng tai, muốn nhìn được cõi lặng yên đó không thể nhìn được bằng mắt. Vâng, chỉ có sự yên lặng nầy mới ngắm mới nghe được sự yên lặng kia, thế giới của đá, của hoa, của rêu xanh vô thanh mà đầy những mật ngữ: "Thôi em đừng nói nữa. Hình như bạch hạc đang nhú mầm. Cuống hoa vút mềm như lời người ươm nhựa. Hạt mưa nào rơi mấp mé thanh âm". (Bạch hạc).

N.N.T
(137-07-00)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)