Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Một cương lĩnh xây dựng Đảng và di sản văn hóa thiêng liêng quí báu của dân tộc ta

08:59 13/11/2009
CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Bút tích Di chúc Bác Hồ - Ảnh: congan.com.vn

Ba mươi năm qua, Cách mạng Việt Nam đã trải qua nhiều bước cam go với những thử thách to lớn, song dưới sự lãnh đạo của Đảng với quyết tâm thực hiện tốt những lời dạy trong Di chúc của Bác Hồ, nhân dân ta đã thu được nhiều thành tựu quan trọng. Hoàn thành thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xây dựng lại đất nước ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn theo con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Niềm tự hào mà giờ đây chúng ta có thể thắp nén hương lòng báo cáo trước vong linh của Người về những thành tích đã đạt được, kể cả những gì còn thiếu sót và xin hứa với Người, quyết tâm thực hiện tốt hơn nữa hoài bão của Người trước lúc đi xa!

Lật lại những trang Di chúc mà Bác Hồ đã viết cách đây 30 năm, chúng ta không khỏi bàng hoàng xúc động. Bởi trong cuộc đời cầm bút của Bác Hồ, Người đã từng viết nhiều văn bản và tác phẩm quan trọng gắn liền với những sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước. Chỉ tính riêng nghề viết báo, Bác Hồ đã viết tổng cọng hơn 1644 bài với 53 bút danh khác nhau. Nhưng chưa có bài viết nào, tác phẩm nào mà Bác Hồ lại dành nhiều thời gian công sức, tâm huyết, cẩn thận cân nhắc từng câu, từng chữ, từng ý, từng lời, xóa đi viết lại, bổ sung nhiều như bản Di chúc lịch sử để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta cùng bạn bè trên thế giới. Đây là tác phẩm vô giá trong di sản văn hóa tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh có sức lay động trái tim của hàng chục triệu người Việt Nam và bè bạn quốc tế. Bởi Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết tinh - tinh hoa tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân đã suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, hạnh phúc của nhân dân và nhân loại.

Đúng như một nhà nghiên cứu nước ngoài vẫn thường nói “Ở Việt Nam, thế kỷ XX, anh hùng thì nhiều nhưng vĩ nhân chỉ có một, đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Là người Việt Nam, chúng ta tự hào về điều đó!

Đọc Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta bắt gặp một áng văn tuyệt bút của nhà văn hóa Hồ Chí Minh cùng với cuộc đời vô cùng cao thượng, phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ của Người. Hẳn trong mỗi chúng ta ai cũng biết: Bản Tuyên ngôn Độc lập- áng văn lập quốc vĩ đại khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết mấy ngày trên căn gác ngôi nhà 48- Hàng Ngang- Hà Nội vào những ngày thu cuối tháng 8 - 1945. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến được Người hoàn thành trong buổi chiều đông tại làng Vạn Phúc- Hà Đông ngày 19- 12- 1946... Những văn kiện quan trọng này có sự đóng góp ý kiến, công sức tập thể của các đồng chí Thường vụ trung ương Đảng. Riêng Di chúc là văn bản “tuyệt đối bí mật", để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta cùng các thế hệ mai sau, Bác Hồ suy nghĩ cân nhắc viết qua nhiều năm mới hoàn thành và chúng ta chỉ được biết sau khi Người qua đời ngày 2. 9. 1969. Một bản di chúc viết đi viết lại vỏn vẹn chưa đầy 10 trang giấy (24 cm x 14 cm) mà Bác Hồ phải hoàn chỉnh sau 4 năm (từ 5. 1965- 5. 1969) cũng là việc làm “xưa nay hiếm” của Người.

Công việc này khởi đầu từ ngày 10- 5- 1965, giữa lúc đồng bào và chiến sĩ cả nước đang nỗ lực thi đua lập thành tích cao nhất chúc thọ Bác Hồ tròn 75 tuổi. Vào thời điểm đó, sức khỏe của Người đang rất tốt. Chúng ta không ngờ rằng: Bức chân dung Bác Hồ hồng hào đẹp lão nhất trở thành bức ảnh phổ biến treo trong các gia đình, nhà trường và công sở chính là chân dung được chụp vào dịp kỷ niệm 75 năm ngày sinh của Người. Và Bác Hồ đã chọn cái thời điểm sức khỏe tốt nhất ấy để viết những lời dành cho cái ngày mình sẽ ra đi mãi mãi. Không ai có thể chống lại qui luật ngặt nghèo của tạo hóa, vẫn biết vậy! nhưng con người ta với bản năng sinh tồn, sinh học tự nhiên, đang lúc khỏe mạnh cả thể chất lẫn tinh thần thì ít ai lại sớm “chăm lo cái chết của mình” (ít nhất là vào thời điểm kỷ niệm sinh nhật) với tinh thần lạc quan, ung dung, thư thái đến lạ thường như Bác.

Từ ngày 10- 5 đến 14. 5. 1965, mỗi ngày Bác dành thời gian từ 1 đến 2 tiếng đồng hồ để viết và hoàn thành bản di chúc đầu tiên vào ngày 15. 5. 1965 do chính tay Người tự đánh máy để “tuyệt đối bí mật”. Duy nhất chỉ có đồng chí Lê Duẩn lúc đó (1965) là Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành trung ương Đảng Lao động Việt Nam ký vào bên trái của bản di chúc cho đầy đủ “tính pháp lý”

Năm 1966, cũng vào dịp kỷ niệm ngày sinh của mình, Bác đem ra xem lại và bổ sung thêm một câu vào bản di chúc viết năm 1965, phần nói về Đảng “phục vụ tổ quốc” và “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Năm 1967 Người xem lại nhưng không thấy bổ sung gì thêm. Năm 1968, Người bổ sung thêm 6 trang viết tay, trong đó Bác viết lại đoạn mở đầu và đoạn nói về việc riêng, về một số công việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, như chỉnh đốn lại Đảng, chăm lo đời sống của các tầng lớp nhân dân, miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã...

Ngày 10. 5. 1969, Bác xem lại và viết lại toàn bộ phần mở đầu Di chúc, gồm một trang viết tay ở mặt sau của một “bản tin hằng ngày”.

Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, Di chúc Người đã được công bố, gây xúc động và niềm cảm phục sâu sắc không chỉ toàn thể nhân dân Việt Nam mà với cả bạn bè các dân tộc trên thế giới đang đấu tranh cho nền hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Ngày 19. 8. 1989, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra thông báo về một số vấn đề liên quan đến Di chúc và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng bào, cán bộ và chiến sĩ ta đã từng được nghe, được đọc bản Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1969. Hai mươi năm sau lại được biết thêm toàn bộ bút tích của Người viết năm 1965, 1966, 1968 và 1969. Đây cũng là việc làm cần thiết của “Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) thấy, có trách nhiệm thông báo đến toàn Đảng, toàn dân một số vấn đề liên quan đến Di chúc của Bác và ngày Bác qua đời" (Trích thông báo số 151- TB/ TW ngày 19-8-1989 của Bộ Chính trị BCHTW Đảng CSVN - Hà Nội 1989).

Toàn bộ di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cương lĩnh về công tác xây dựng Đảng và định hướng phát triển đất nước ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc thắng lợi. Việc làm trước tiên theo Người “là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm trọn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi". Không phải ngẫu nhiên mà trong Di chúc cả 3 lần viết Bác cũng dành phần đầu tiên “trước hết nói về Đảng” và Người sửa chữa bổ sung, cân nhắc từng câu, từng chữ, từng ý từng lời, xóa đi viết lại nhiều nhất cũng là những điều căn dặn về Đảng. Phải chăng vì Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta nên hơn ai hết, Người hiểu rõ và tiên lượng những gì sẽ xảy ra, những gì là sự cần thiết cấp bách đối với Đảng ta với tư cách là “Đảng cầm quyền” lãnh đạo đất nước sau khi chiến tranh kết thúc. Vì vậy Người luôn căn dặn “Mỗi đảng viên và cán bộ phải THẬT SỰ thấm nhuần đạo đức cách mạng, THẬT SỰ cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta THẬT trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ THẬT trung thành của nhân dân". Một đoạn văn chỉ có 56 từ mà Bác Hồ đã dùng bốn chữ THẬT quả là điều để chúng ta suy ngẫm. Bởi trong cách nói, cách viết của Bác Hồ, Người không bao giờ dùng câu thừa, chữ thừa. Thế nhưng những chữ “THẬT” lặp đi lặp lại ở trong Di chúc, không những không thừa, mà còn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Đó là sự khẳng định không thể thay đổi đối với Đảng Cộng sản Việt Nam “Đảng đạo đức, Đảng văn minh”.

Đồng chí Vũ Kỳ, thư ký riêng của Bác Hồ cho biết “Bác đã suy ngẫm trong suốt một thời gian dài về bốn chữ THẬT đó, chí ít là trong 3 tháng, kể từ buổi Người đến thăm Nguyễn Trãi ở Côn Sơn ngày 15- 2- 1965, trước khi bắt tay vào viết Di chúc ngày 10- 5- 1965 (Báo Nhân Dân số ra ngày 8-2 - 1999). Trong bốn chữ THẬT nói trên thì chữ THẬT thứ 4 (cuối cùng) quan trọng nhất, nó bao hàm kết quả của 3 chữ THẬT trước đó “Phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Bao nhiêu lợi ích cũng vì dân, suốt cả cuộc đời Người chỉ theo đuổi một mục đích, là làm cho ích quốc lợi dân” (Hồ Chí Minh- Những sự kiện. NXB Thông tin lí luận trang 104) “dân vi quí”, cái vĩ đại của Dân không chỉ ở một từ viết hoa, và càng không phải là danh từ đi kèm đứng sau với chức năng bổ ngữ, mà thực sự là những con người rất cụ thể đời thường, không có những người dân cụ thể ấy, thì không có cách mạng. Hẳn chúng ta còn nhớ, vào thời điểm Cách mạng tháng 8 - 1945, cả nước ta chỉ có độ 5 ngàn đảng viên vậy mà vẫn đủ sức thổi bùng ngọn lửa cách mạng của hơn 21 triệu người Việt Nam đứng lên đánh Pháp đuổi Nhật, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Ngày nay, chúng ta có cả một cơ đồ to lớn, đông đúc và khang trang... nhưng sức mạnh sâu xa nhất của cách mạng, của Đảng vẫn mãi mãi nằm ở nơi lòng dân. Nhắc lại những chuyện ngày này của năm xưa để chúng ta thấy rằng: Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng thực hiện nghị quyết T.W 6 (lần 2) đúng vào dịp kỷ niệm 30 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng chính là sự nhắc nhở “ôn cố, tri tân và cũng là cảch để chúng ta suy ngẫm về bốn chữ “THẬT” trong Di chúc của Bác Hồ. “Nước lấy dân làm gốc”, những người đảng viên cộng sản Việt Nam không thể xa rời nhân dân. Như những chàng khổng lồ trong truyện thần thoại Hy Lạp cổ xưa, một khi nhấc chân lên khỏi ĐẤT MẸ thì sức mạnh sẽ tan biến!.

Chúng ta có thể khẳng định rằng: Trong công cuộc đổi mới xây dựng lại đất nước ta hiện nay, muốn giành được thắng lợi thì một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu là mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải xứng đáng là một tấm gương thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Bởi nếu Đảng bị thoái hóa, biến chất,, không còn “xứng đáng là người lãnh đạo", thì chẳng những công cuộc đổi mới không thành, mà thành quả cách mạng giành được sau mấy mươi năm chiến đấu hy sinh cũng trở thành mây khói. Đồng chí Lê Khả Phiêu- Tổng Bí thư BCHTW Đảng trong diễn văn kỷ niệm 109 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và 30 năm thực hiện Di chúc của Người đã nói “Đảng ta vừa tiêu biểu về trí tuệ vừa là tiêu biểu về đạo đức, lương tâm, danh dự của dân tộc... Nếu chúng ta không kiên quyết chặn đứng, đẩy lùi sự suy thoái đang diễn ra trong Đảng, trong bộ máy nhà nước thì sẽ dẫn đến nguy cơ làm biến chất Đảng, đe dọa sự sống còn của chế độ, độc lập và an ninh của Tổ quốc”

Theo Di chúc, muốn thực hiện thành công cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng trước hết cần phát huy các yếu tố chính trị, tư tưởng, đoàn kết nhất trí trong Đảng. Phải thực hành dân chủ rộng rãi, coi đó là chiếc chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi vấn đề, “thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau". Phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, một vấn đề mà Bác Hồ đặc biệt quan tâm ngay từ thời dựng Đảng. Năm 1927 trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” Bác đã dành hẳn một chương nói về “tư cách người kách mệnh”. Năm 1947 trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” Bác dành hẳn 3 chương nói về “tư cách và đạo đức cách mạng”. Người thường dạy “Cũng như sông thì phải có nguồn, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” Và khi viết Di chúc năm 1969 Bác nhắc nhở Đảng ta chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng. Bài học đó ngày nay đã trở thành vấn đề thời sự cấp bách sống còn của Đảng và của dân tộc.

Di chúc cũng căn dặn “Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân". Đầu tiên là công việc đối với con người, phải thực hiện chính sách xã hội đối với con người, Bác chỉ rõ đối tượng phục vụ là cán bộ, chiến sĩ, dân quân du kích, thanh niên xung phong, thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ, nông dân, phụ nữ... đến cả những người là nạn nhân của chế độ cũ... hầu như Người không quên và bỏ sót một ai, kể cả những người lầm lỡ. Có thể thấy Di chúc là cả một chương trình hành động toàn diện về xây dựng các chính sách xã hội đối với con người sau chiến tranh, nhằm cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho mọi tầng lớp nhân dân.

Nhìn lại chặng đường 24 năm sau ngày đất nước ta hoàn toàn được giải phóng, cả nước thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, có những việc chúng ta thực hiện tốt, có những việc chúng ta làm chậm và cả những việc chúng ta làm chưa tốt cần rút kinh nghiệm khắc phục bổ sung. Hoàn cảnh lịch sử thay đổi không cho phép chúng ta giữ nguyên những chính sách cũ như hồi đầu chiến tranh, nhưng dù thế nào đi chăng nữa nếu để đánh mất những giá trị đạo đức tinh thần. tinh hoa ưu việt của xã hội- xã hội chủ nghĩa (như giáo dục, y tế, đền ơn đáp nghĩa...) thì nó sẽ trở thành vấn đề nóng bỏng đối với đất nước khó lường.

Di chúc phản ánh tâm hồn và đạo đức của một con người vĩ đại suốt đời hết lòng phục vụ tổ quốc, phục vụ cách mạng và phục vụ nhân dân.

Toàn bộ Di chúc toát lên khí phách anh hùng, tinh thần lạc quan chiến thắng của một vĩ nhân đại trí, đại đức, đại dũng luôn vững tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc, sự tất thắng của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước sau chiến tranh kết thúc. Giữa lúc cuộc kháng chiến của nhân dân ta đang bước vào giai đoạn gay go quyết liệt với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai; cuộc “đụng đầu lịch sử” vẫn chưa đến hồi kết thúc, nhưng niềm tin vào thắng lợi dựa trên sức mạnh đoàn kết dân tộc, vào sự lãnh đạo tài tình của Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân, Di chúc đã khẳng định “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể kéo dài mấy năm nữa (bản Di chúc năm 1965) và “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải vượt qua nhiều gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn... Dù khó khăn đến mấy nhân dân ta NHẤT ĐỊNH sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ NHẤT ĐỊNH phải cút khỏi đất nước ta, Tổ quốc ta NHẤT ĐỊNH sẽ thống nhất, Đồng bào Nam- Bắc NHẤT ĐỊNH sẽ sum họp một nhà..."

Di chúc thể hiện tinh thần lạc quan tuyệt vời trước cái chết. Xưa nay trong cổ- kim- Đông- Tây, người ta nghĩ về cái chết thường ủy mị, hẫng hụt, ít ai nghĩ đến cái chết đầy lạc quan như đi vào chốn bồng lai tiên cảnh như Bác Hồ. Người không dùng chữ “tuổi” để chỉ sự thượng thọ của mình, mà lại dùng chữ “xuân”. “Khi người ta đã ngoài 70 xuân” thật hóm hỉnh biết bao! Cổ nhân dùng chữ “xuân” để ví tuổi trẻ “xuân xanh nay độ trăng tròn lẻ” chứ ít ai đã ngoài 70 mươi mà vẫn “xuân” một cách ý vị như Bác Hồ. Vẫn biết rằng qui luật của muôn đời “tuổi càng cao, sức khỏe càng thấp (chứ không yếu); Người tự hào về tuổi thọ của mình và để khẳng định Người dẫn câu thơ của Đỗ Phủ “nhân sinh thất thập cổ lai hy” để ví mình đã là lớp người “xưa nay hiếm”. Người không nói đến cái chết mà chỉ nói “Tôi sẽ đi gặp các cụ Các Mác, Lê Nin và các vị cách mạng đàn anh khác”, thì ra cái chết sinh học của Người là sự kết thúc nhiệm vụ này để ra đi làm nhiệm vụ khác; cho nên Người mãi mãi vẫn là “xuân” trong thế giới người hiền. Sống vì sự nghiệp, thác cũng vì sự nghiệp, trần cũng như tiên, nên khi viết về cái chết, Người vẫn ung dung, thư thái đến lạ thường. Chúng ta không tìm thấy từ nào trong Di chúc có bóng dáng của bi lụy tang tóc. Bởi hơn ai hết Bác Hồ của chúng ta đã ý thức được qui luật muôn đời của sự sống, sau khi đã cống hiến hết sức lực của mình cho Tổ quốc, cho nhân dân và đóng góp cho nhân loại, thì sự ra đi của Người là sự ra đi hoàn tất trách nhiệm, mở ra cho chúng ta một sự sống. Bởi Người vẫn tin ở chúng ta sẽ tiếp tục sự nghiệp cách mạng và hoài bão của Người. Bác ra đi trong thanh thản nhẹ nhàng, chỉ để lại mấy lời này là DI CHÚC, chỉ mấy lời thôi mà 30 năm sau nghĩ lại chúng ta thấy thấm thía cả một đời và cả muôn đời thế hệ mai sau.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, một con người vĩ đại nhưng rất đỗi khiêm nhường. Bác không tự coi mình là người lãnh đạo, mặc dù Bác là vị lãnh tụ tối cao của Đảng, toàn dân và dân tộc. Bác chỉ xem mình là một người phục vụ “Một người suốt đời một lòng một dạ phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân". Trong Di chúc, chúng ta thấy có đến 10 lần Bác dùng từ “phục vụ”, không có từ nào tự cho mình là người lãnh đạo đứng cao hơn nhân dân. Người phục vụ cao nhất, nhiều nhất... ấy trên ngực áo không một tấm huân chương “nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Suốt đời tự nguyện làm người phục vụ, nên sau đi qua đời Bác căn dặn “Chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình để khỏi lãng phí thời giờ và tiền bạc của nhân dân", chỉ chừng ấy thôi, thì sự ra đi của Người vẫn còn phục vụ nhân dân. Bác yêu cầu thi hài của mình được “hỏa táng” chính là Người đã mở ra cho dân tộc ta một nếp sống văn minh văn hóa mới - văn hóa chết. Bác căn dặn sau khi hỏa táng xong “Tro chia làm 3 phần bỏ vào 3 hộp sành, cho 3 miền... Đồng bào mỗi miền nên chọn một quả đồi mà chôn hộp tro đó... Không nên có bia đá tượng đồng, mà chỉ xây một ngôi nhà giản đơn, rộng rãi chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi", tức là Người dạy chúng ta cách tưởng niệm hay nhất là xây công trình tưởng niệm trong lòng dân. Bác khuyên chúng ta “nên có kế hoạch trồng cây trên đồi, ai đến thăm thì trồng một cây làm kỷ niệm” thì cái chết của Người giúp cho nhân dân ta mở ra một sự sống, bởi “trồng cây nào phải tốt cây ấy. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng, sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp”. Dẫu không còn sống trên đời này nữa, nhưng Bác vẫn “Nâng niu tất cả chỉ quên mình” (Tố Hữu) chỉ nghĩ đến cái lợi cho dân hơn là lưu danh mình nơi hậu thế. Và cuối cùng Bác để lại “Muôn vàn tình thương yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thiếu niên và nhi đồng”. Phải chăng đây là bài thơ cuối cùng của nhà thơ Hồ Chí Minh, bởi mỗi câu, mỗi chữ của Người dồn nén lại bao cảm xúc chan chứa tình người, tình yêu thiên nhiên, con người và cuộc đời. “Chất thơ thể hiện ở "Muôn vàn tình thương yêu” gây xúc động trong mỗi trái tim Việt Nam và trái tim nhân loại. “Tôi có ý định đến ngày đó (tức ngày chiến thắng giặc Mỹ xâm lược) tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quí của chúng ta”.

“Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cám ơn các nước anh em trong phe XHCN và các bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta”.

Phải chi lịch sử diễn ra nhanh hơn chút nữa, để chúng ta đón Bác trong ngày vui của thắng lợi sau cùng! Phải chi chúng ta không nóng vội chủ quan để khỏi vấp váp những sai lầm trong chặng đường hơn mười năm sau ngày giải phóng, để hôm nay chúng ta bớt ân hận trước anh linh của Người! Ôi! tình cảm thật thủy chung, nghĩa tình quá trọn vẹn, chúng ta chỉ tìm thấy ở Người, một tâm hồn lớn, nhân cách lớn của một vĩ nhân. Từ trong sâu thẳm, Di chúc là những lời tạ từ, một sự tạ từ như lỗi hẹn, vì lúc đó (1969) cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đang bước vào thời kỳ gay go quyết liệt nhất; Người biết mình không kịp nhìn thấy ngày thắng lợi, không kịp làm cái điều vốn rất thiết tha tự đáy lòng của Bác - một lãnh tụ yêu nước chân chính, yên dân, kính dân hết mực, một chiến sĩ quốc tế đấu tranh cho hòa bình và sự tiến bộ xã hội không mệt mỏi. Không chỉ đối với chúng ta - con cháu của Bác, mà bạn bè quốc tế gần xa khi đọc Di chúc của Người cũng vô cùng xúc động “Ôi! tình nghĩa Việt Nam tràn đầy và chung thủy. Xót xa thay, lòng mong muốn của nhân dân Xô- Viết được đón tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh trên xứ sở của Cách mạng tháng Mười sẽ không bao giờ thực hiện nữa! Nhưng không, Người vẫn đó và những cuộc gặp mặt đó vẫn tới, thường xuyên và gần gũi" (Báo Nhân Dân số ra ngày 6- 11- 1969)

Người viết bài này có suy nghĩ rằng: Không phải ngẫu nhiên mà Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), quyết định “Toàn Đảng tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình nhân kỷ niệm 30 năm thực hiện Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh". Mặc dù xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phê và tự phê là việc làm thường xuyên, nhằm làm trong sạch, nâng cao sự lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Nhưng cuộc vận động này được tiến hành từ ngày 19. 5. 1999 đến 19. 5. 2001. Đây cũng là sự thể hiện 5 lời thề của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đối với Bác, cũng như những lời dặn cuối cùng của Bác để lại trong Di chúc, tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta và các thế hệ mai sau. Đồng thời khẳng định con đường chúng ta đang đi là đúng hướng - con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, phấn đấu vì muc tiêu “Dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng và văn minh".

Huế 5. 1999
C.H.H
(127/09-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)

  • LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.

  • THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.

  • HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...

  • BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.

  • HỒ THẾ HÀ   Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.

  • TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.

  • TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.

  • HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)

  • LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)

  • VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)

  • NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

  • BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.

  • PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)

  • HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.