Đèo Hải Vân

16:15 03/09/2008
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Đất nước ta, miền Bắc và miền nối liền nhau bằng một dải đất dài và hẹp gọi là miền Trung. Dãy Trường Sơn chạy dọc biên giới phía Tây như một cột sống vươn những chi nhánh dài ra tận biển Đông, làm thành những đèo, trong đó hiểm trở là đèo Hải Vân.

Ca dao xưa còn lưu lại tiếng tăm của đèo Hải Vân:
- Đi bộ thì khiếp Ái Vân
Đi thủy thì khiếp sóng thần hang Dơi
- Chiều chiều mây phủ Hải Vân
Chim kêu ghềnh đá ngẫm thân thêm buồn.
Những bài khác dù không gọi thẳng tên đèo Hải Vân nhưng tôi nghĩ vẫn chính là đèo ấy như một ám ảnh trên đường tiến của dân tộc:
- Đã sinh ra kiếp đàn ông.
Đèo cao, núi thẳm, sông cùng quản chi.
Điệu hát Lý Qua Đèo có lẽ sinh ra từ nỗi ám ảnh ấy.
Đèo Hải Vân quả nhiên là một trái núi đứng sừng sững trên mặt biển; người lữ hành nghe biển ngầm réo dưới chân đèo. Sách Hải Ngoại Kỷ Sự (vào cuối thế kỷ thứ XVII) cho biết rằng xưa đèo Hải Vân có tên là núi Ngãi Lãnh: ''Từ Thuận Hoá vào Hội An, đường bộ tức nhờ Ngãi Lãnh. Sách Dư Ký bảo rằng: khoảng tháng hai tháng ba, hoa ngãi nở trôi ra biển, cá ăn hoa ấy, hóa rồng, tất hoa ngãi ở núi này vậy". Hồi đó, người ta phải sử dụng một con đường tắt qua núi để tránh đèo Hải Vân: "Trong đó có đường voi đi, một lối đường tắt để thông hành khi có việc cần kíp, có thể một ngày đi đến Thuận Hóa". Thế đủ biết, thế hiểm trở của đèo Hải Vân ngày xưa trên con đường xuyên Việt, nghĩa là trên đường tiến của dân tộc. Ngay cả bây giờ, khi tôi đang viết bài này, cũng có tin vừa xảy ra tai nạn giao thông trên đèo Hải Vân.
Sử cũ chép rằng vào năm 1402, khi nhà Hồ chiếm được đất Chiêm Động, bèn chia làm bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa; Ai ở châu nào thì khắc tên vào cánh tay châu ấy, hàm ý giữ đất đến cùng. Đất Nam Ô phía đèo Hải Vân (phía Nam Châu Ô) có lẽ cũng được gợi ý từ việc này chăng? Thế mới biết quyết tâm giữ đèo của người Việt. Về phía người Chàm, thì từ đời Đông Hán, trải qua 1000 năm Bắc thuộc, người Chàm đã dời đổi biên giới của quốc gia nhiều lần; nhưng nghĩ cho kỹ, thì biên giới phía Bắc của nước Chiêm Thành chưa bao giờ lùi quá "bến Ôn Công", tức là mũi Chân Mây (phía Bắc đèo Hải Vân, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế). Cả phía Chàm và phía Việt, ai cũng muốn chiếm lấy đèo Hải Vân. Thế mới thấy tính chiến lược của đèo Hải Vân. Sách Ô Châu Cận Lục (viết giữa thế kỷ XVI) nhắc lại lời Nguyễn Hoàng, cho biết rằng chính Trịnh Kiểm đã nhìn thấy vai trò chiến lược này. Trịnh Kiểm cho rằng "Đèo Hải Vân bền vững như chiếc khóa vàng là chỗ đầu não của non sông, chỗ yết hầu của miền Thuận Quảng". Hình như trên những đỉnh núi cao chất ngất nhìn ra biển như thế này, người ta thường bị kích thích bởi một nguồn mỹ cảm đông phương hàm chứa hai yếu tố tương phản gọi là Sơn Thuỷ, vốn sinh thành nên cái đẹp của thế giới. Vào cuối thế kỷ XIX cụ Tam Nguyên, Trần Bích Sơn (bạn cùng lớp với Nguyễn Khuyến) đã viết bài thơ "Tam thướng Hải Vân đài" trong đó có hai câu nổi tiếng:
... Văn phi Sơn Thủy vô kỳ khí
Nhân bất phong sương vị lão tài
Nhưng người ta mô tả đèo Hải Vân kỹ nhất là Thích Đại Sán. Trong cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự của ông (in vào cuối thế kỷ XVII), lúc đó chưa có đường qua đèo, ông viết:
"... Đi ngựa không được, phải đổi sang võng. Dân ở dưới đèo rất khổ, quan binh đi đông, bắt phu không đủ, người ta phải vào lùng bắt từng nhà, nếu không có người, thì trong nhà có mâm nồi gì, quan đều tịch thu hết". Đây là một cảnh bắt phu ở chân đèo Hải Vân:
"Ngày ấy bắt được mấy người dân nghèo gầy gò giơ xương, người nào cũng bới tóc đứng kêu vang rất thảm thiết ".
Trên đỉnh đèo, do mây mù phong kín suốt năm lại còn ẩm ướt như mưa, nên sớm muộn gì, người ở Thuận Quảng cũng phải nghĩ đến việc làm nhà trọ trên đỉnh đèo Hải Vân:
"Một quán nhà ba gian, vừa thắp đèn. Khách trong quán thấy đai võng đến đều bỏ chạy vào rừng trốn, vì sợ bắt phu"
Thích Đại Sán bèn nghĩ ngay đến việc quyên góp để làm một con đường thông đèo Hải Vân. Bài phú mở đèo này được chép ra thành nhiều bản và phát không cho mọi người, trong đó có câu:
"Kẻ giúp của, người giúp công, đông tay vỗ nên bộp - anh tấm gạch, tôi viên đá, muôn trượng đắp thành đường".
Chính vua Minh Mạng đã ra chỉ dụ kêu gọi dân đến làm nhà sống trên đỉnh đèo Hải Vân. Nhà vua còn ban bố một loạt chính sách nhằm dân cư hóa đèo Hải Vân:
"Phủ Thừa Thiên và tỉnh hạt Quảng Nam đều dụ khắp cho nhân dân trong hạt có người nào chịu đến ở hai bên đường núi đèo Hải Vân làm nhà để ở thì tất cả thuế thân, binh lính, giao dịch, được miễn hẳn; còn ruộng vườn khai khẩn được, trồng trọt hoa lợi lúa thóc, cũng cho miễn thuế; trong đó xét ra hễ người nào không có vật lực dời nhà làm ở chỗ khác được, thì quan liêu cấp vốn cho, để cho từ đầu núi đến chân núi, từng đoạn nhà nối tiếp, cho người đi đường đói ăn khát uống, có chỗ nghỉ ngơi, như thế, người ở đây cũng được nhờ vả, mà người đi đường lại bớt tình trạng mệt nhọc". (Minh Mạng năm thứ 19 - 1838), Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ).
Nhà vua còn nghĩ đến việc trồng cây để lấy bóng mát cho người đi đường; theo nhà vua, đó chính là cây mít, vì mít cho: 1. Bóng mát để nghỉ ngơi; 2. Gỗ để làm nhà; 3. Trái để ăn (có lẽ vết tích còn lại của chủ trương này, là trong Đại Nội, người ta tìm thấy nhiều cây mít gốc bị đổ trong trận bão 1985). Nhưng đèo Hải Vân vắng người qua, vì vẫn còn nhiều nỗi nguy hiểm dọc đường. Theo truyền thuyết thì mãi cho đến trước Cách mạng tháng Tám, ở hai bên chân đèo, có hai bãi đất trống cắm những cây sào nhọn dành cho người đi đường. Người ta sẽ mang theo một chiếc sào bịt sắt nhổ ở bãi đất bên này và cắm trả lại ở bãi đất phía bên chân đèo, để tránh cọp.
Mãi đến nay, nghĩa là hơn 700 năm sau đám cưới của Huyền Trân Công Chúa, đèo Hải Vân vẫn là một vấn đề thời sự đối với ngành giao thông Việt Nam.
Người Pháp có công mở đường quốc lộ I qua đèo. Người Mỹ đến sau, vẫn giữ đường cũ, chỉ biến thành đường hai chiều.
Vừa rồi, Bộ Giao thông Vận tải đã chủ trì lễ khởi công làm đường qua đèo Hải Vân lại. Theo dự án mới này, thì đường qua đèo sẽ thấp hơn, đường quốc lộ IA chạy qua đèo sẽ ngắn hơn và hai thành phố Đà Nẵng - Huế sẽ được xích lại gần nhau bằng một con đường hầm đục xuyên đèo Hải Vân.
Điều tôi lấy làm tâm cảm, trong dự án này, là thái độ kính trọng đối với thiên nhiên của dự án. Người ta đã không bạt núi và cũng không giết hại cây rừng, vốn là môi trường sống của bao nhiêu loài động vật hoang dã. Đúng vậy thôi, nếu người ta tàn hại thiên nhiên một cách không hợp lý, thì sớm muộn cũng bị thiên nhiên giáng trả bằng những đòn trừng phạt.
Huế,18/09/2000
H.P.N.T

(nguồn: TCSH số 163 - 09 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN HỮU NHÀN                     Ghi chép Ngày nay đồng bào cả nước nô nức về Phú Thọ để tưởng niệm Vua Hùng. Theo sử sách cổ của Trung Hoa thì ông Vua Hùng chính là người Lạc Việt có nhiều pháp thuật, quyền năng phục được các bộ lạc, làm thủ lĩnh mà xưng là Hùng Vương (1).

  • TRẦN CHINH VŨChỉ mấy ngày nữa là hết năm, vậy mà tôi vẫn chưa rời khỏi đất Tây Nguyên. Cái vùng đất đến lạ, tới được đã khó, đến lúc về lại cứ lần lữa, hết hẹn này qua hẹn khác.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                     Bút kýMỗi dân tộc đều có một quan niệm về sắc đẹp riêng, ví dụ tranh Tố Nữ là quan niệm về sắc đẹp của người Việt một thời nào. Tôi đi Tuyên Quang trong một tour du lịch mà tôi gọi là tour Lương Tâm, nghĩa là đến những nơi mà bất cứ ai là người Việt đều không thể không đến.

  • HỒ VĨNH(Thấp thoáng cố đô)

  • NGUYỄN VĂN DŨNG                        Bút kýMùa hè năm 1965, tôi nhận sứ vụ lệnh về dạy học ở trường Trần Quốc Tuấn - Quảng Ngãi. Biết tôi thích ngao du sơn thuỷ, đám đệ tử thân thiết khao thầy một chầu du ngoạn Lý Sơn.

  • NGUYỄN THỊ SỬU1. Thời gian là thước đo sự tồn tại của vạn vật trong vũ trụ bao la. Vạn vật luôn chuyển động và biến đổi không ngừng theo thời gian. Với người Ta Ôi, thời gian được tri nhận rõ nhất qua sự chuyển động và biến đổi của con trăng.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây các nhà khảo cổ học nước ta đã phát hiện ra nhiều di tích quan trọng của một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ giáo tại Cát Tiên, ở cả Bắc Cát Tiên lẫn Nam Cát Tiên trên vùng Đồng Nai Thượng.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ                     Ghi chépChúng tôi rời thị xã Điện Biên đã nhiều ngày và những hoạt động sôi nổi kỷ niệm 45 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã qua, nhưng những ấn tượng trong thời gian ở Điện Biên thì mãi còn đậm nét trong tôi.

  • VĂN HÁCHĐã bốn thập kỷ qua, nhiều thế hệ học sinh, nhiều thế hệ người Việt ta và cũng nhiều người trên thế giới đã từng quen, từng biết câu thơ:Mường Thanh, Hồng Cúm Him LamHoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng…

  • NGUYỄN HỮU NHÀNTương truyền đức Thánh Mẫu (mẹ Thánh Tản Viên) là người làng Yên Sơn. Chồng bà là người vùng biển. Họ dựng nhà, sống ở ngay dưới chân núi Thụ Tinh ngày nay gọi chệch là núi Thu Tinh. Một lần bà đi qua đồng Móng làng Tất Thắng ướm chân vào hòn đá to rồi về thụ thai ba năm mới sinh nở. Vì thế khi đang bụng mang dạ chửa bà đã bị dân làng đồn đại tiếng xấu về sự chửa hoang. Chồng bà nghi ngờ rồi bỏ vợ, về quê ở miền biển sinh sống.

  • DƯƠNG PHƯỚC THUChỉ hai ngày sau khi nước rút, tôi lại chạy về huyện Phú Vang. Nắng vàng sau lụt, vào tiết lập Đông oi nồng như đổ lửa. Con đường nhựa từ Huế về biển Thuận An bị bùn, đất, cát phủ dầy hàng gang tấc có đoạn lên cao cả thước, xe chạy người chạy vội vã cuốn bụi tung mù trời, hai bên lề đường ngấm nước lũ được đánh dấu bằng rác rều cỏ cây đeo bám vật vờ cao qúa đầu người. Mùi bùn non, rong rêu, xác chết gia súc gia cầm tấp vào, mùi ủng mục của lúa gạo ngấm nước bạc bốc lên tanh hôi khó chịu.

  • YÊN CHÂUQuảng Điền là một trong những huyện bị lũ lụt nặng nhất Thừa Thiên.Có thể kể ra đây mấy con số: 42 người chết, 13.000 tấn lúa bị thối, 3078 con trâu bò bị chết, 34 cây số đê bị vỡ.

  • NGUYỄN THỊ SỬU Cư trú trên dãy núi Trường Sơn kéo dài từ Thừa Thiên Huế đến Quảng Trị của lãnh thổ nước ta, dân số Ta-Ôi chỉ 34.960 người (theo Tổng điều tra dân số 1/4/1999) và ít được biết đến. Nhưng khi đi sâu vào đời sống văn hóa, chúng ta mới thấy sự kỳ thú, kỳ vĩ của dân tộc này. Với tư cách là một thành viên bản địa của cộng đồng tộc người Ta-Ôi và sau một chuyến khảo sát điền dã khắp 21 xã, thị trấn của huyện A Lưới, Thừa Thiên Huế, chúng tôi phát hiện ra một nét văn hóa đặc sắc có tính truyền thống của dân tộc Ta-Ôi. Đó là Trách nhiệm cộng đồng.

  • HOÀNG CÁTVới riêng tôi, thì những cái địa danh bình thường, thuộc nông thôn vùng sâu, vùng xa của tỉnh Thừa Thiên Huế như: Triều Dương, Cao Xá, Quảng Thái, Phong Chương, Phù Lai, An Lỗ, Đồng Lâm, Phong Sơn, xóm Khoai, xóm Mắc vv… từ lâu đã trở thành một phần máu thịt của tâm hồn mình, của ký ức mình; chưa bao giờ - và sẽ không bao giờ - tôi nguôi quên cho được.

  • NGÔ MINH             Ghi chép

  • NGUYỄN THANH TÚ                          Bút ký Bến phà Xuân Sơn nằm trên dòng sông Son thơ mộng ở đoạn thượng nguồn. Từ đây đi bằng thuyền máy khoảng nửa giờ đồng hồ ngược lên phía tây sẽ đến động Phong Nha. Anh Lê Chiêu Nguyên cán bộ hướng dẫn của Trung tâm du lịch văn hóa sinh thái Phong Nha - Kẻ Bàng đã nói như vậy khi đoàn chúng tôi chuẩn bị lên thuyền làm cuộc hành trình tới hang động mà UNESCO vừa công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới.

  • NGUYỄN THẾTừ Huế, muốn đến khu nước khoáng nóng Thanh Tân, ta cứ theo Quốc lộ I ra phía Bắc, đi khoảng 20 km, tới cầu An Lỗ; qua cầu, rẽ trái theo tỉnh lộ 11, đi khoảng 12 km là đến. Còn nếu đi từ hướng Quảng Trị vào, đến km 26, rẽ phải vào cổng làng Đông Lâm thẳng theo con đường trải nhựa khoảng 7 km, gặp tỉnh lộ 11, rồi rẽ trái 1km.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                       Ghi chépNói đến Vĩnh Linh, không ai không nhớ hai câu thơ đầy hãnh diện của Bác Hồ tặng cho mảnh đất này:                “Đánh cho giặc Mỹ tan tành                Năm châu khen ngợi Vĩnh Linh anh hùng”

  • …Chưa bao giờ các văn nghệ sĩ Huế lại tranh thủ “đi” như ở Trại viết này. Không chỉ “săn” cảnh đẹp, người đẹp, các anh còn chú trọng hơn những nét đẹp trong lao động sản xuất của người dân Bà Rịa-Vũng Tàu…

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG                                Bút ký...Bảy trăm năm trở về với Đại Việt, lịch sử đèo Hải Vân đã dày lên cùng với lịch sử nước Việt. Đó là những trang sách được viết bằng mồ hôi, máu và số phận của cả một dân tộc. Ngày Huyền Trân đi qua cửa Tư Dung (Tư Hiền ngày nay), nàng đã nhìn thấy gì nếu không phải là con ngựa trắng tung bờm lao ra biển đông, và đèo Hải Vân cao mịt mùng đã lặng lẽ đưa một Chiêu Quân vì nước non ngàn dặm ra đi. Cuộc vu qui nhiều nước mắt ấy theo tôi là trang sử đầu tiên của đèo Hải Vân. Để sau đó nơi hiểm trở này đã tiễn chân Cao Bá Quát, cái ngày ông đi giang hồ rèn chí, con chim hồng quì chân uống nước sông Trà mà vọng về phương Bắc lòng tha thiết nhớ quê...