Dê và biểu tượng của dê

15:19 16/10/2018

LÊ QUANG THÁI

Ngày xuân còn dài, xin kể vài mẫu chuyện dê tiêu biểu trên đất kinh kỳ văn vật cốt chỉ mua vui chốc lát trong hương vị của ngày Tết cổ truyền.

Minh họa: Bửu Chỉ

Mùi còn gọi và đọc là Vị , là ngôi thứ 8 trong 12 con giáp, đều có biểu tượng rất dân dã là . Theo cách viết dương , là , dẫu là dê nhà hay dê rừng cũng vậy. Từ lại còn nghĩa riêng để chỉ người đa dâm dù là đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ, nghèo hay giàu, dinh hay quê.

Dâm là một điều cấm thuộc luật cấm của đời lẫn đạo. Thế mà các cụ túc nho đời xưa lại bảo:

"Ai dám bảo chữ dâm là bậy
Không dâm sao lại đẻ ra hiền”.

Lẽ nào các cụ nói không có lý vì thiếu cơ sở nhận thức!

Đứng trên cầu Phú Xuân ngắm nhìn mây trời hương nước, ngâm nga hai câu thơ của một tác giả, đã một thời cảm tác về Huế buổi xa xưa được phân ranh trong trí tưởng tượng làm hai: bên này là tòa sứ, bên kia là Nam Triều:

"Đục trong tâm sự chìm mưa nắng
Ai nói ai nghe chuyện hý trường"
                        (Nguyễn Văn Thư)

Nhớ lại 108 năm về trước, năm Quý Mùi (1883), lịch sử nước ta diễn ra một giai đoạn bi thương. Trước họa giặc Pháp gây sức ép đến tận kinh đô, vua Tự Đức đau nặng rồi mất (16 tháng 6 Quý Mùi). Từ thời điểm này trở đi, chỉ trong vòng hơn 4 tháng, sự phế lập vua xảy ra liên tiếp ở triều đình Huế.

Vua Dục Đức lên ngôi được 3 ngày thì hai ông Phụ chính chuyên quyền Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết bắt tội, đem vua bỏ ngục cho chết đói. Lạng quốc công húy Hồng Dật, em út vua Tự Đức, được tôn lên làm vua lấy niên hiệu là Hiệp Hòa. Sử sách ghi lại rõ vài chi tiết ngày lễ đăng quang:

"Ngày Ất Hợi làm lễ tấn tôn tại điện Thái Hòa. Khi Các quan đương sắp hàng lạy, có một con chim đậu trên ngọn cây trước điện kêu tiếng lớn. Đến khi đọc di chiếu, lại có một đoàn dê qua cầu Kim Thủy. Người ta cho là điều không tốt"(1).

Tháng Chạp năm Quý Mùi, năm cùng tháng tận, công sứ Pháp ở Tàu là Tricou nhân đi qua Sài Gòn, được chính phủ Pháp ủy nhiệm ra Huế hỗ giao Hòa ước Quý Mùi (còn gọi là Hòa ước Harmand) vào tháng Chạp năm ấy tức nhằm ngày Tết Dương lịch (1.1.1884).

Với Hòa ước Quý Mùi ký ngày 25-8-1883 tại Huế, gồm 27 khoản, nước Nam mất hết chủ quyền. Nam triều đã “gửi thân" cho chính phủ bảo hộ các quyền về ngoại giao, quân sự, tài chánh... Vua quan ta rảnh việc!

Chỉ trong vòng hơn 4 tháng mà phế lập 3 vua. Cả một tấn tuồng bi lệ, một bức tranh vân cẩu không hơn không kém. Người dân Việt không ai là không đau lòng trước vận nước đen tối rơi đúng vào năm con dê hiếm có này.

Chép về loài dê, sử sách đã ghi lại rõ nét về tên gọi và đặc điểm nổi bật của loài dê như sau:

"Bản thảo gọi là Cổ 羖,Đê , là Yết .Sách Lễ ký gọi là Nhu mao 毛, Thiếu lao 牢. Dịch kinh chú: Dê không có con ngươi mà ngó thấy. Lại có một loại Đại Vĩ Dương đuôi rất lớn".(2)

đồng bằng có đuôi ngắn khác với loại dê rừng đại vĩ dương. Dê là loài thú được chọn đưa vào phục vụ chốn cung vua, gần gũi với hoạn quan và cung tần mỹ nữ. Hình tượng dê được khắc chạm vào DỤ ĐỈNH trong hệ thống Cửu đỉnh bằng đồng đặt trước Thế miếu vào năm Minh Mạng thứ 17(1836).

Dê trên Cửu Đỉnh - Ảnh: internet


Bản Đại Nam nhất thống chí thời Tự Đức đã phân rõ hai loại dê rừng bằng cách dựa vào màu sắc của cặp sừng dê:

" - Dê rừng trắng sừng - Linh dương. Bản thảo gọi là Lộc linh dương. Hoàn vũ ký chép rằng ở núi cao thuộc An Nam sản sinh giống Linh dương, có một sừng, rất rắn, có thể húc nát được đá kim cương"...

- Dê rừng đen sừng- Sơn dương. Bản thảo gọi là dã dương nguyên dương(3)

Sách lại ghi thêm rằng năm Nhâm Dần, vào dịp đầu Xuân năm 1842, ở ngoài Hiếu lăng (lăng vua Minh Mạng) có con linh dương từ nguồn Tả trạch (của Sông Hương) lạc về, người giữ lăng lập mưu bắt được dê đem dâng. Dê rừng được nuôi lâu thành quen với môi trường mới vì nhờ được tiêu chuẩn cao do nhà vua ban cấp và lại được người giữ khéo chăm sóc, o bế để lập công.

Người chăn sóc dê cho biết dê sống thành bầy đàn Dê cụ đực làm chúa đàn có cách làm việc nghiêm túc, từ sáng sớm đã kiểm tra sĩ số, rồi dẫn đàn đi ăn cho dến chiều hôm tìm cách đưa về sao cho đủ mặt. Đàn dê sống liên kết với nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp có thể đương đầu với chúa sơn lâm. Sư tử, cọp phải sợ bầy đàn dê. Đó là một nét đặc trưng nổi bật của loài dê dầu là dê nhà hay dê rừng.

Cùng loại thú có nét tương cận ít nhiều với khuyển dịch nôm là chó. Bản thảo là địa dương. Giữa và chó có nét tương đồng trong cách gọi tên. Có lẽ đó là một trong những cơ sở phụ vào yếu tố sinh lý cấu tạo thành hai loại thịt dê thịt chó. Cho nên trong dân gian đã có câu tục ngữ: "Treo đầu dê bán thịt chó.” Nghĩa rộng và thoát của câu tục ngữ này thật phong phú và đa dạng. Chỉ riêng về lãnh vực kinh tế sản xuất, việc làm hàng kém chất lượng, hàng dổm cũng là một cách biểu hiện tinh thần câu nói bất hủ của dân gian:

"Xin đừng dở dói văn chương nữa,
Bán chó sao ngoài lại thủ dê"
                        (Nguyễn Công Trứ)

Dưới khía cạnh Dịch lý, nhà bác học Lê Quí Đôn đã giải thích chung quanh các đặc trưng của các loại cầm thú cùng nhóm, cùng mẫu mà sách Dương Cốc mạn lục đã dẫn lại thành dưới dạng tập hợp:

"Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi là ÂM, cho nên lấy số chẵn tương thuộc và đặt tên như trâu 4 móng, thỏ 2 móng, rắn 2 lưỡi, dê 4 móng, heo 4 móng"(4).

Rồi dựa vào sách Thiên sinh tiểu luận, tác giả sách Vân đài loại ngữ lại ghép thiên can địa chi để giải thích bản chất mắt dê không có con ngươi:

"ẤT MÙI ở trên là gió, ở ngũ tạng là gan, Giáp mộc sinh ở Hợi, tử ở Ngọ, mộ ở Mùi, cho nên loài dê trông ngược, không có con ngươi và 4 móng"(5).

Năm Tân Mùi, (1871), Nguyễn Trường Tộ dâng lên vua Tự Đức bản điều trần. Ông dùng thuyết âm dương, ngũ hành để lập luận, chứng minh việc thực dân Pháp xâm chiếm nước ta là điều trước sau không tránh khỏi. Đó là một cách biểu hiện tốt đạo làm tôi biết băn khoăn trước vận nước đỏ đen.

Về mặt cương thường đạo lý, dương tức là có ý nghĩa biểu tượng đẹp nét, ấy là đức hy sinh, kể cả mạng sống để cứu giúp người, cứu nguy tổ quốc. Với ý nghĩa cao thượng ấy trong ngũ thường có điều nghĩa. Nghĩa là hy sinh cái ta (cái ngã) theo nghĩa lý rút ra từ chiết tự của từ NGHĨA. Từ này gồm chữ dương đặt trên từ NGÃ hội ý mà thành từ NGHĨA .... Vì việc nghĩa đòi hỏi tự nguyện hy sinh cái ta để giúp người, giúp đời. Sống vị ngã (vì mình) thì còn vướng nặng nghiệp chướng dễ dẫn tới chỗ hẹp hòi, ích kỷ làm mất nhân cách. Dương Chu, triết gia thời Chiến quốc, chủ trương thuyết vị kỷ: "Nhổ một sợi tóc mà lợi cho thiệp hạ cũng chẳng làm". Sống có nghĩa là sống đẹp, chết vì nghĩa là chết đẹp. Ngán nhất trên đời là kẻ phi nghĩa, kẻ bất nghĩa.

Vì vậy mà được chọn là một trong những con vật tế thần. Phan Kế Bính trong tác phẩm Việt Nam phong tục nhắc đến lễ tam sinh mà đúng tên gọi là lễ Thái lao:

"Sau khi đức Khổng phu tử chết rồi, đến đời vua Cao tổ nhà Hán, mới lên ngôi vua, trước hết dùng lễ THÁI LAO (một con trâu, một con bò và một con dê) thân hành đến tế Ngài nơi nhà thờ".(6)

Trong các lễ tế trời, tế tôn miếu, tế thần hoàng người ta dâng lễ tam sinh. Thông thường vì khó kiếm được , ban chủ tế đã thay dê bằng heo. Việc chọn giống vật để tế thần đã có từ đời Phục Hy, thời Tam Hoàng ngũ Đế của Trung Hoa. Vua Phục Hy dạy dân cách chăn nuôi loài vật.

Năm Quí Mùi (1823) nhân tiếp sứ thần nước Diến Điện đến giao hảo, vua Minh Mạng đã sớm nghĩ đường lối ngoại giao với các nước. "Không nên bỏ tình giao hiếu mà gây nên sự cưu thù"(7)

Giữ lấy lòng thù địch thì chỉ tạo thêm mâu thuẫn. Tư tưởng ấy thể hiện trong tác phẩm "Lục súc tranh công" ra đời vào đầu thế kỷ 19. Chưa rõ ai là tác giả, tác phẩm này viết theo thể loại tuồng gồm 453 câu. Nội dung đưa ra việc tranh luận giữa 6 con vật: trâu, chó, ngựa, dê, gà, lợn... Ngựa kiện dê, dê kể công rồi lại xoay ra kiện gà. Tranh luận gay gắt hóa ra tranh chấp quyền lợi vì chưa điều hòa được những mâu thuẫn. Của ít mà phân phối không công bằng, thưởng phạt thiếu công minh, cơ cấu nhân sự theo phe cánh chứ không vì thực lực thì trước sau cũng xảy ra chuyện lục đục, chia rẽ trong nội bộ cho dù khéo cách tém nhặt, che giấu vì sợ sự thật bay ra ngoài.

Vua quan có tài, có tướng là điều diễm phúc cho dân, cho nước, loài vật cũng có tướng và cũng có dụng của chúng. Platon, triết gia Hy Lạp thời cổ đại, đã mạnh dạn gọi đó là cái đức của loài vật. Sừng dê rừng là vị thuốc quý, Sách Đại Nam nhất thống chí cho biết nó được dùng để trị bệnh nhiệt phong và kinh giản (co giật). Lấy linh dương giác và nhị hồng sâm đem chưng với sữa dê trở thành phương thuốc bổ thận và trị thận suy...

còn cung cấp cho người ta bộ da quý và đắt giá. Sách Sử Ký của Tư Mã Thiên chép chuyện Bá Lý Hề làm quan đại phu nước Ngu. Nước Tấn diệt nước Ngu. Bá Lý Hề bị bắt làm nô bộc để theo hầu con gái của mình đã gả cho Tần Mục Công. Bá Lý Hề thấy nhục, bèn trốn sang nước Uyển thì bị người ở biên ấp nước Sở bắt. Trong những năm tháng lao đao, ông phải đi giữ bò. Mục Công nghe tiếng ông là người hiền bị đày đọa bèn sai người đem năm bộ da dê cái màu đen chuộc về phong cho làm tướng quốc. Do đó người ta gọi ông Hề là "ngũ cổ đại phu" : quan đại phu năm bộ da dê cái(8)

Bên cạnh các sở dụng, loài dê có những dị tướng. Đó là tướng trời sinh gọi đúng chữ nghĩa là bản chất tiên thiên. Nếu ruột ngựa thẳng thì ruột dê hẹp và uẩn khúc. Theo tướng số, người nào được râm độn trúng ruột dê là người có lòng dạ đáng sợ như người có ruột chó vậy.

Giới sành điệu ăn uống đã biết cách làm và chế biến các món ăn từ dê như dê tái, tiết canh dê, gỏi dê, bó sỗ dê, rượu dầm, cao dê... Nữ sĩ Trương Đăng Thị Bích đã diễn thành thơ về cách làm và nấu các món ăn từ thượng vàng đến hạ cám ở chốn cung đình và trong dân dã. Đặc biệt, các món ăn thuộc loài thú có món gỏi dê bó sỗ dê là đòi hỏi nhiều công phu:

GỎI DÊ

"Thịt dê xắt nhỏ cũng in rau
Chả rối, heo ria, luộc bún tàu.
Bánh tráng mè rang, xương nấu nước
Tương đường mỡ tỏi ruốc năm màu".(9a)

BÓ SỖ DÊ

"Này dê phải cạo sạch lòng con,
Lá sả bao ngoài khéo cuộn tròn,
Lạt mỏng ràng quanh cho thịt chặt.
Luộc lâu da dẻo ấy là ngon". (9b)

Lại thêm loại nếp có tên rất biểu tượng là nếp mỡ dê, tên gọi theo chính sử là dương chi nỏa. Loại nếp ngon này có màu trắng, chất dẻo và thơm. Nông dân trồng vào tháng 5 và thu gặt ở tháng 10 âm lịch. Gói bánh chưng, bánh tét dùng trong dịp Tết Nguyên Đán bằng loại nếp mỡ dê thì cực kỳ tuyệt: mỡ dê, bọc lấy mỡ heo, mỡ heo quyện lấy mỡ dê, cuộn tròn và lăn đều...

Đầu năm Tân Mùi, nhắm chén trà sen, hít thở hương vị ngày Tết, xin nghe kể lai rai chuyện năm Mùi cho bùi tai và đem loài dê ra khảo lý lịch ba bảy đời vương. Kể làm sao cho hết, nếu có thì giờ mà kiên trì phỏng vấn thì cũng chỉ thấy kêu ba tiếng be, be, be rồi ngúc ngắc cái đầu, bỏ đi vào đường cấm.

Ở đất kinh kỳ còn lắm chuyện dê, nào là trò dê chốn cung cấm, dê cụ, dê xồm, dê tứ chiếng, dê cỏn húc gàn, ông tiến sĩ mọc lông dê, cà dê, quán dê, bịt mắt bắt dê, chịu đấm được dê, dê đời mới... Có những chuyện vốn không dê mà lại hóa mới tài, mới tức cười... Đau lòng biết mấy: khóc dở khóc, cười dở cười vì tình đời vốn dĩ éo le.

Năm Tân Mùi, 1991 phải là một năm tiến bộ nhờ biết phát huy biểu tượng và phẩm chất tốt đẹp của .

2.12.1990
L.Q.T
(TCSH44/01-1991)


-------------------
(1) Quốc triều chánh biên, Nghiên cứu sử địa Việt Nam, Sài Gòn, 1972, tr.404.
(2) Đại Nam nhất thống chí, Thừa Thiên phủ, tập hạ, Nguyễn Tạo dịch, Sài Gòn, 1962, tr. 91.
(3) Đại Nam nhất thống chí, tập I, Khoa học xã hội, Viện sử học, Hà Nội, 1969, tr. 349.
(4) Lê Quí Đôn, Vân đài loại ngữ, Phạm Vũ và Lê Hiền dịch, miền Nam, Sài Gòn 1973 tr.99.
(5) Lê Quí Đôn, Sđd, tr.99.
(6) Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, tp Hồ Chí Minh, 1990 tr.210.
(7) Quốc triều chánh biên, sđd, quyển thứ III, Thánh tổ Nhơn Hoàng Đế, tr. 125.
(8) Sử ký của Tư Mã Thiên. Lá Bối, Sài Gòn, Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê dịch, 1970. tr. 757.
(9ab) Trương Đăng Thị Bích, Phụ đạo ca và Thực phổ bách thiên, Huế, 1989, tr.31.






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)

  • NGUYỄN QUANG HÀ                            Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".

  • XUÂN HUY        "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại        Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"

  • TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

  • LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

  • HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

  • THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

  • QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

  • ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét:        Rõ ràng trong ngọc trắng ngà        Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên                                                        (Nguyễn Du)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.

  • VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.

  • NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).

  • NGUYỄN QUANG SÁNG                                 Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.

  • TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

  • HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...

  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!