Phá Tam Giang
Cuốn “Dân ca Bình Trị Thiên” (1) ở trang 204 thì ghi: 1. Thương em, anh cũng muốn vô Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang 2. Phá Tam Giang ngày rày đã cạn Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm… - Cuốn “tự điển Việt Nam” (2) quyển thượng, phần phụ lục ở trang 47, thì lại ghi: 1. Nhớ em, anh cũng muốn vô Sợ truông nhà Hồ, ngại phá Tam Giang 2. Phá Tam Giang ngày rày đã lặng Truông nhà Hồ nội tán dẹp yên. - Gia phả của họ Nguyễn Khoa ở Vĩ Dạ (Huế) thì ghi: 1. Thương anh, em cũng muốn vô Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang 2. Phá Tam Giang ngày rày đã cạn Truông nhà Hồ nội tán dẹp yên Thương anh, em phải vô liền Trong ni cơm gạo, của tiền thiếu chi Trước hết, chúng ta hãy xét câu hò thứ nhất. Sự khác nhau chủ yếu trong các cách ghi của câu hò này là ở hai chữ “Thương em” và “thương anh”. Còn sự khác nhau ở các chỗ thương, hay nhớ, sợ hay ngại là không quan trọng vì chúng không ảnh hưởng đến nội dung của câu hò. Ghi thương em thì nội dung câu hò, cách hiểu về câu hò sẽ hoàn toàn khác với ghi thương anh. Cuốn “Tự điển Việt Nam” ghi là “Nhớ em, anh cũng muốn vô” thì cho rằng, câu hò này liên quan đến một câu chuyện tình trắc trở giữa anh hàn sĩ xứ Nghệ với cô lái đò trên sông Ô Lâu. Tương truyền, người ta kể rằng, ngày trước có một anh hàn sĩ xứ Nghệ vào kinh thi hội đã đem lòng thương yêu cô lái đò xinh đẹp ở bến cây đa trên sông Ô Lâu. Sau khi thi đậu trở về, hai người hẹn ước với nhau sẽ kết nghĩa trăm năm. Và chiều theo ý nàng, chàng đã để lại một chiếc áo để làm tin: Ra về để áo lại đây Để đêm em đắp kẻo ngọn gió tây lạnh lùng. Nhưng khi về đến Nghệ An, thì chàng không thực hiện được điều ước hẹn của mình vì cha mẹ quyết không cho chàng lấy vợ xa. Chàng đành chịu bó tay và đau xót nhắn tin vào cho nàng biết nhưng lại nói dối là: Nhớ em, anh cũng muốn vô Sợ truông nhà Hồ, ngại phá Tam Giang Như vậy, câu hò này chính là lời của anh hàn sĩ xứ Nghệ nhắn vào với cô lái đò trên sông Ô Lâu. Qua cách ghi của gia phả họ Nguyễn Khoa “Thương anh, em cũng muốn vô” và đặc biệt là có thêm câu: “Thương anh, em phải vô liền. Trong ni cơm gạo, của tiền thiếu chi” thì nhiều người lại hiểu câu hò thứ nhất là lời của một người vợ ở các tỉnh phía ngoài truông nhà Hồ nhắn vào với chồng đi lính đang ở vùng phía trong truông nhà Hồ. Hai cách ghi có hai cách hiểu. Do đó, đây là hai câu hò khác nhau chứ không phải là hai biến thể (dị bản) của một câu hò. Trong hai câu hò này thì người nhắn hoàn toàn khác nhau nhưng nội dung nhắn thì lại giống nhau. Tất cả đều “Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”. Tại sao “truông nhà Hồ” và “phá Tam Giang” lại trở thành những biểu tượng rùng rợn đối với nhiều người đương thời như vậy. Để hiểu câu hò này, chúng ta cần tìm hiểu thêm đôi nét về truông nhà Hồ và phá Tam Giang. Truông nhà Hồ hiện nay nằm về phía Bắc thị trấn Hồ Xá (huyện Bến Hải) và kéo dài dọc đường quốc lộ 1A ra đến gần xã Vĩnh Chấp. Xưa kia, đây là một vùng rừng rú rậm rạp và hoang vắng. Bọn cướp thường tập trung ở đoạn truông này để giết người cướp của. Chúng ngang nhiên hoành hành, cướp phá ở đây nên “truông nhà Hồ” đã trở thành mối đe dọa và ám ảnh nhiều người. Phá Tam Giang thuộc địa phận Thừa Thiên. Ngày trước do cửa phá thông ra biển quá hẹp nên sóng ở đoạn cửa phá thường rất dữ dội. Sóng to đến mức làm cho thuyền bè ra vào cửa thường bị chìm và người ta cho đó là sóng thần. Ngày xưa, muốn đi vào hai châu Ô, Rý thì chỉ có đường bộ và đường thủy. Đường bộ thì phải qua truông nhà Hồ và đường thủy thì phải vào phá Tam Giang. Nhưng cả truông nhà Hồ và cả phá Tam Giang đều trở thành những mối đe dọa và uy hiếp đến tính mạng, tài sản của những ai muốn vào vùng này. Trong suốt một thời gian dài, truông nhà Hồ không chỉ là mối đe dọa đối với dân thường mà còn là mối đe dọa cho cả nhà nước. Hàng hóa, lương thực của nhà nước chở qua truông cũng bị cướp. Nếu tránh đường bộ qua truông nhà Hồ mà đi đường thủy vào phá Tam Giang thì lại bị sóng nhận chìm. Thời đó, người ta “sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang” là vì vậy. Chúng ta chuyển sang tìm hiểu cách ghi và cách hiểu câu hò thứ hai. Đây là nội dung chính mà bài viết này muốn đề cập đến. Khác với câu hò thứ nhất, câu hò này có hai cách ghi khác nhau và tạo ra hai biến thể: - Biến thể 1: Phá Tam Giang ngày rày đã cạn Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm - Biến thể 2: Phá Tam Giang ngày rày đã lặng Truông nhà Hồ nội tán dẹp yên Hai biến thể này có hai chỗ khác nhau: cạn và lặng, cấm nghiêm và dẹp yên. Nhưng chỗ khác nhau chủ yếu để tạo nên hai biến thể của câu hò là ở chữ cạn và chữ lặng. Do đó, cách ghi: Phá Tam Giang ngày rày đã cạn Truông nhà Hồ nội tán dẹp yên Như gia phả họ Nguyễn Khoa, chúng tôi cũng không coi là biến thể thứ ba. Như vậy, vấn đề đặt ra là trong hai cách ghi trên đây thì cách nào đúng hơn. Nói một cách khác, chúng ta phải xác định biến thể nào là chuẩn. Biến thể 1, ghi: “Phá Tam Giang ngày rày đã cạn” theo chúng tôi là không đúng. Sự thật có phải lúc đó phá đã cạn đi so với trước không? Và vì sao phá cạn lại không còn nguy hiểm nữa? Chúng tôi đã tìm gặp nhiều người am hiểu về Bình Trị Thiên để hỏi về nội dung câu hò và những câu hỏi nói trên thì đều không được giải thích và trả lời một cách thỏa đáng. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, đây là một trường hợp “tam sao thất bản” thường thấy trong văn học dân gian. Do đó, chúng tôi phải đi sâu tìm hiểu biến thể 2 và cố gắng tìm cách lý giải nó. Trước khi đi vào tìm hiểu nội dung câu hò, có một điểm đáng lưu ý là cả hai biểu tượng rùng rợn một thời về “truông nhà Hồ” và “phá Tam Giang” đều đã bị xóa bỏ và việc xóa bỏ hai biểu tượng đáng sợ đó lại có quan hệ với nhau. Vì vậy, để hiểu câu hò này, chúng ta cần tìm hiểu thêm một số chi tiết lịch sử có liên quan đến nội dung câu hò. Cả hai biến thể của câu hò đều có nhắc đến hai chữ “nội tán”. Nội tán là một chức quan của chúa Nguyễn và quan nội tán mà câu hò nói đến chính là quan nội tán Nguyễn Khoa Đăng. Nguyễn Khoa Đăng là người thông minh nổi tiếng. Năm 18 tuổi ông đã ra làm quan cùng với cha nên mới có câu “phụ tử đồng triều”. Ông là một người cương trực, một ông quan có tài xử kiện cáo nhưng rất công minh nên được người đời gọi ông là “Bao Công Việt Nam”. Ông là người có công rất lớn trong việc dẹp yên bọn cướp ở truông nhà Hồ và trị được sóng thần ở phá Tam Giang. Sau khi cho người nghiên cứu cách hoạt động của bọn cướp ở truông nhà Hồ ông đã nghĩ ra cách để trừng trị bọn chúng. Ông bố trí một đoàn xe chở lúa gạo và hàng hóa qua truông. Ông bố trí một người lính được ngụy trang và bí mật ngồi trong thùng xe. Đáy thùng xe có đục thủng một lỗ nhưng tạm thời được nút kín. Theo kế hoạch định trước khi xe bị cướp thì người lính ngồi trên xe bắt đầu kéo nút ra để lúa rải ra dọc đường và cứ thế kéo về tận sào huyệt của chúng. Sự việc diễn ra hoàn toàn đúng như ông dự đoán. Nhờ có lúa rải dọc đường mà ông tìm ra sào huyệt bọn cướp và bố trí bắt gọn. Sau vụ đó thì truông nhà Hồ trở nên yên ổn. Và như vậy thì “Truông nhà Hồ nội tán dẹp yên” mới đúng, chứ không phải “Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm”. (3) Để trị sóng thần trên phá Tam Giang, ông cũng cho nhiều người về cửa phá nghiên cứu thật kỹ và đi đến kết luận. Sóng dữ ở phá Tam Giang thực chất không phải là sóng thần như người ta đồn đại. Sóng dữ ở đây chủ yếu là do địa hình cửa phá tạo ra. Nhưng vì nhân dân đã tin như vậy nên quan nội tán cũng dùng mê tín để trị mê tín. Ông đã tổ chức một buổi lễ bắn sóng thần công khai trên phá Tam Giang có đông đảo nhân dân hai bên bờ chứng kiến. Sau khi làm lễ gọi “sóng thần” lên ông liền bắn vào ba ngọn “sóng thần” hung dữ nhất. Ông đã bí mật bỏ rất nhiều gói phẩm điều vào trong tay áo thụng. Sau khi bắn xong, ông liền tung hết phẩm điều ra giữa phá làm cho nước phá đỏ ngầu. Ông cho quân lính reo hò và báo cho nhân dân hai bên bờ biết là sóng thần đã bị bắn chết và máu của thần đã chảy ra đỏ cả nước phá. Sau khi bắn sóng thần xong ông liền huy động nhân dân mở rộng cửa phá, nạo vét những chỗ cần thiết để sóng không còn dữ dội như trước nữa. Sự thật là nhờ mở rộng cửa nên sóng ở phá Tam Giang mới lặng đi. Nhưng vì có cái lễ bắn sóng thần rất oai phong do ông diễn nên nhân dân cứ tin tưởng là sóng thần đã bị quan nội tán bắn chết. Như vậy, cùng với việc dẹp yên bọn cướp ở truông nhà Hồ, quan nội tán cũng đã dẹp yên nạn “sóng thần” trên phá Tam Giang. Vì thế nên người ta mới hò: “Phá Tam Giang ngày rày đã lặng” chứ không phải “Phá Tam Giang ngày rày đã cạn”. Tóm lại, bằng trí thông minh và những hiểu biết một cách khoa học, quan nội tán Nguyễn Khoa Đăng đã góp phần không nhỏ vào việc xóa tan hai biểu tượng khủng khiếp về “truông nhà Hồ” và “phá Tam Giang” từ lâu đã ám ảnh mọi người.(4) Dân gian đã ghi nhớ công lao của quan nội tán bằng cách đặt một câu hò và câu hò đó phải ghi như sau mới đúng: Phá Tam Giang ngày rày đã lặng Truông nhà Hồ nội tán (5) dẹp yên. Qua thực tế tìm hiểu nội dung ý nghĩa câu hò trên đây, chúng ta thấy rằng, để hiểu một câu hò cổ không đơn thuần chỉ dựa vào câu, chữ mà cần phải có những hiểu biết nhiều mặt, trong đó, những hiểu biết về lịch sử là vô cùng quan trọng. V.X.T. (4/12-83) -------------- 1. NXB Văn học, Hà Nội, 1967. 2. Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1970. 3. Chuyện này, cuốn Đại Nam liệt truyện tiền biên, cũng như cuốn “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam”, tập III của Nguyễn Đổng Chi đều chép khác nhau. 4. Ông còn nhiều chuyến xử kiện thể hiện sự quan tâm của ông đối với nhân dân trong vùng, trong đó chuyện “đánh thần đá bắt khai tên bọn trộm cướp” là chuyện đặc sắc hơn cả… Chúng tôi sẽ trình bày kỹ các chuyện nói trên trong bài “Bao công Việt Nam” vào một dịp khác. 5. Do ảnh hưởng của tiếng Huế nên gia phả họ Nguyễn Khoa đã ghi ‘nội tán’ thành ‘nội táng’. Ghi như vậy là không đúng. |
ĐỖ LAI THÚYHòn đất cũng biết nói năng(Nhại ca dao)
HOÀNG CẦMĐang những ngày hè oi ả, mệt lử người thì anh ấy mời tôi viết Bạt cho tập thơ sắp muốn in ra. Ai đời viết bạt cho tác phẩm người khác lại phải dành trang giấy đầu tiên để viết về mình? Người ta sẽ bảo ông này kiêu kỳ hay hợm hĩnh chăng? Nhưng cái anh thi sỹ tác giả tập thơ thì lại bảo: Xin ông cứ viết cho, dẫu là bạt tử, bạt mạng, thậm chí có làm bạt vía ai cũng được - Chết, chết! Tôi có thể viết bạt mạng chứ sức mấy mà làm bạt vía ai được.
ĐẶNG ANH ĐÀOTrong tác phẩm nghệ thuật, phân biệt thật rạch ròi cái gì là ý thức, sáng suốt, tự giác với cái gì vô ý thức, tự phát, cảm tính không phải là điều đơn giản. Ngay cả những nhà văn lãng mạn như Huygô, nhiều lúc sử dụng nhân vật chính diện như những cái loa phát biểu lý tưởng của mình, thế mà đã có lúc Kessler bịt miệng lại không cho tán tụng nhân vật Côdet và mắng rằng: Huygô anh chả hiểu gì về tác phẩm ấy hết", đồng thời tuyên bố rằng ông còn thích Epônin gấp bội lần "Côdet, cô nàng điệu đàng đã tư sản hóa ấy".
ĐỖ ĐỨC HIỂU…Với tôi, Balzac là Tiểu thuyết, và Tiểu thuyết là Balzac, - tiểu thuyết Balzac là "tiểu thuyết tuyệt đối", tức là nó biểu hiện tất cả sức mạnh sáng tạo của ông, tất cả cái "lực" của ý thức và tâm linh, của khoa học và tôn giáo, từ cấu trúc truyện và thời - không gian (chronotope), đến cấu trúc nhân vật, tất cả phối âm, tương ứng với nhau thành một dàn nhạc hoàn chỉnh…
HỮU ĐẠTKhông phải ngẫu nhiên, Trần Đăng Khoa lại kết thúc bài viết về Phù Thăng một câu văn rất là trăn trở: "Bất giác... Tôi nắm chặt bàn tay gầy guộc của Phù Thăng, lòng mơ hồ rờn rợn. Chỉ sợ ở một xó xỉnh nào đó, sau lùm cây tối sầm kia, lại bất ngờ cất lên một tiếng gà gáy..." Ta thấy, sau cái vẻ tếu táo bên ngoài kia lắng xuống một cái gì. Đó là điểm gợi lên ở suy nghĩ người đọc.
HÀ QUANG MINHTôi không muốn chỉ bàn tới cuốn sách của ông Khoa mà thôi. Tôi chỉ coi đó là một cái cớ để bàn luận về nền văn học nước nhà hiện nay. Là một người yêu văn học, nhiều khi tôi muốn quên đi nhưng vô tình vấn đề nẩy sinh TỪ "CHÂN DUNG VÀ ĐỐI THOẠI" đã trở thành giọt nước cuối cùng làm tràn ly và lôi tuột cái nỗi đau mà tôi muốn phớt lờ ấy. Phải, tôi thấy đau lắm chứ. Bởi lẽ ai có ngờ mảnh đất trong sáng mang tên văn học sao giờ đây lại ô nhiễm đến thế.
HOÀNG NGỌC HIẾN(góp phần định nghĩa minh triết) (tiếp Sông Hương số 248)
Việc giải quyết thành công mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính hiện đại đã hình thành ra các trường phái âm nhạc như: âm nhạc Nga, Pháp, Mỹ, Trung Hoa . . .
Phê bình thi pháp học đã mang đến sức sống mới cho phê bình văn học Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu cho rằng thi pháp học là phương pháp minh chứng cho thành quả thay đổi hệ hình nghiên cứu trong phê bình văn học.
Hiện nay trên thế giới, quan niệm về Nghệ thuật tạo hình, Nghệ thuật thị giác và Mỹ thuật mang ý nghĩa gần giống nhau. Nó bao gồm: hội họa, đồ họa, kiến trúc, điêu khắc, trang trí ứng dụng, video clip, sắp đặt v.v..Loại hình nghệ thuật này luôn xuất hiện bằng những hình ảnh (image) thu hút mắt nhìn và ngày càng mở rộng quan niệm, phương thức biểu hiện cũng như khai thác chất liệu. Tuy nhiên, để hiểu thế nào là nghệ thuật trong tranh, hoặc vẻ đẹp của một công trình nghệ thuật còn là câu hỏi đặt ra với nhiều người.
HÀ VĂN LƯỠNGPuskin không chỉ là nhà thơ Nga vĩ đại, nhà viết kịch có tiếng mà còn là nhà cải cách văn học lớn. Là người “khởi đầu của mọi khởi đầu” (M. Gorki) Puskin bước vào lĩnh vực văn xuôi với tư cách là một người cách tân trong văn học Nga những năm đầu thế kỷ. Những tác phẩm văn xuôi của ông đã đặt cơ sở vững chắc cho văn xuôi hiện thực và sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga, góp phần khẳng định những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc.
ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây trên tuần báo Văn Nghệ đã có bài viết bàn về vấn đề đào tạo "Văn hóa học", nhân dịp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra nghị quyết V về xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
PHAN TUẤN ANH “Cuộc nói chuyện của chúng ta đã cho tôi thấy rằng hết thảy những gì liên quan đến bản chất của ngôn ngữ mới ít được nghĩ đến làm sao” (Martin Heidegger)
TRẦN ĐÌNH SỬVăn học sáng tác là nhằm để cho người đọc tiếp nhận. Nhưng thực tế là người đọc tiếp nhận rất khác nhau. Lý luận tiếp nhận truyền thống giải thích là do người đọc không sành.
NGUYỄN THANH HÙNGVăn học là cuộc sống. Quan niệm như vậy là chẳng cần phải nói gì thêm cho sâu sắc để rồi cứ sống, cứ viết, cứ đọc và xa dần mãi bản thân văn học.
LTS: Cuộc tranh luận giữa hai luồng ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Hiển Dĩnh, một mệnh quan triều đình Huế có công hay có tội vẫn chưa thuyết phục được nhau.Vấn đề này, Tòa soạn chúng tôi cũng chỉ biết... nhờ ông Khổng Tử "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả" (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết). Vậy nên bài viết sau đây của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, chúng tôi xin đăng nguyên văn, tác giả phải gánh trọn trách nhiệm về độ chính xác, về tính khoa học của văn bản.Mong các nhà nghiên cứu, cùng bạn đọc quan tâm tham gia trao đổi tiếp.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.
Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.
ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH Phóng sự điều tra