Để có những giá trị đích thực

15:03 01/03/2013

Tóm lược bài nói chuyện trao đổi một số vấn đề về tình hình văn học Xô viết những năm 80, đặc biệt là sau Đại hội 27 của GSTS V. Xmirnốp trong chuyến thăm Huế với Chi hội Nhà văn Bình Trị Thiên của đoàn cán bộ Học viện văn học Gorki (Liên Xô cũ) do nhà thơ Valentin Xôrôkin, phó Giám đốc Học viện và GSTS Vladimia Xmirnốp đã sang Việt Nam giảng dạy tại trường Viết văn Nguyễn Du năm 1987.

Từ phải qua: Phó GS-TS Phạm Vĩnh Cư, GS Vladimia Smirop, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến, GS Hiệu trưởng trường Đại học Maxim Gorki Boris Nicolainicolaievich Taraxop, thiếu tướng Nguyễn Chí Trung trong ngày kỷ niệm 30 năm Trường Viết văn Nguyễn Du

V.XMIRNỐP


Văn học nghệ thuật nước nào cũng có nhiệm vụ nói lên sự thật với nhân dân, nhưng sự thật không như chụp ảnh mà là sự thật nghệ thuật. Chân lý nghệ thuật phải phục vụ con người, mang tính nhân bản. Đất nước chúng tôi 15 - 20 năm trở lại đây nói lên sự thật bằng ngôn ngữ nghệ thuật cũng còn những mặt bất ổn. Ở đây có nhiều nguyên nhân. Đồng chí M.X. Goocbachốp có nói: Đó là hiện tượng bị xói mòn về tư tưởng, tinh thần trong xã hội Xô Viết... Đó chính là sự lãng quên những giá trị hiện thực, đề cao tâng bốc những giá trị giả. Tôi không giỏi các lĩnh vực khác, chỉ nói về văn hóa nghệ thuật. Các đồng chí đều biết trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, quan điểm dung tục về chức năng, nhiệm vụ, sứ mệnh nghệ thuật đưa đến việc lạm dụng và làm méo mó các khái niệm cơ bản nhất về thẩm mỹ ở các diễn đàn của nó. Một số người lợi dụng chức quyền luôn luôn hô hào giá trị, chân lý… y như lúc nào sự thật cũng đã bỏ sẵn trong túi rồi. Họ đầu cơ tư tưởng, lấy những tôn chỉ của chúng ta để làm ra tác phẩm mà sức sống những tác phẩm đó nhiều khi không được một ngày. Tác phẩm của họ rỗng tuếch, họ trích dẫn Mác, Ăngghen, Lê-nin, ông này ông nọ... Nếu ai không thích, không đồng ý lời họ nói kiểu ấy tức là chống lại quan điểm Ăngghen, Mác...

Văn học chúng tôi (phần nào đó) lâm vào tình huống khó khăn, mặc dầu có nhiều nhà văn chính đáng sáng tạo nhiều tác phẩm hay. Nhưng tôi muốn nói đến vấn đề tồn tại trong văn học. Sêkhốp từng nói: Văn học không nên khoan nhượng với những gì là tầm thường... Còn tình trạng tiêu cực này ở chúng tôi: Có những người cầm bút không ra gì nhưng tác phẩm của họ đoạt giải thưởng cao vì họ có quyền, có thế. Tiếng Nga có hai từ phục vụcông cụ. Hai từ đó nhiều người đánh lẫn hoặc nhầm lẫn. Họ cố tình biến phục vụ thành công cụ. Khi đọc những bài phê bình, tâng bốc của họ, tôi thấy đến như L.Tônxtôi, Puskin cũng không được khen tới mức ấy. Nhiều nhà văn hiện nay được khen mà không hề đỏ mặt. Tất nhiên điều đó đi đến kết quả thảm hại: tình hình văn học bị lệch lạc, méo mó. Họ sản sinh ra hằng hà sa số những người giống nhau, không bản sắc, lu mờ, ngày càng đại trà, đối lập với nền văn học Nga vĩ đại. Chính số đó lăng nhục nền văn học Nga của chúng ta. Văn học bao giờ cũng bênh vực những con người cùng khổ, bảo vệ những người bị lăng nhục. Thời Đôttôiépxki cũng vậy. Bây giờ trong văn học hình thành thứ chủ nghĩa tôi đòi, làm quan văn học, chứ không phải sáng tạo. Kết quả của nó là làm ảnh hưởng không tốt đến thế hệ người viết trẻ. Có người có tài năng thực sự gặp rất nhiều khó khăn. Tài năng đó bị chụp mũ nào là bôi nhọ chế độ, xa rời Đảng, xa rời nhân dân...

Ngay tại Đại hội 27, trong báo cáo chính trị đã nói tới việc nền phê bình đã từ bỏ chức năng của nó, từ bỏ cái roi trên mình ngựa để làm việc phục vụ các nhà văn cấp tướng. Những tác phẩm nói thẳng sự thật cay đắng, hiện thực tiêu cực bị cấm đoán, cho là bôi nhọ chế độ. Nếu có nhà văn nói trong xã hội cũ có cái đẹp truyền thống, thì bị chụp mũ: xa rời thực tế, xa rời lập trường giai cấp công nhân. Các giai đoạn lịch sử của đất nước chúng tôi đầy kịch tính. Nhà văn nào khắc họa chân thực những mâu thuẫn của các giai đoạn đầy kịch tính đó thì người ta lại cho rằng: anh thóa mạ lịch sử, xúc phạm thành quả xã hội. Đặc biệt những khía cạnh có tính bi kịch của con người, những cái gì riêng của con người bị cấm kỵ: Người ta bảo: cái bi mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Họ đi ngược lại chân lý, trái với câu châm ngôn: mọi người phải phục tùng chân lý, chứ chân lý không phục tùng ai cả!

Trong văn học, văn hóa nghệ thuật chúng tôi, có những nhà văn bất đồng với những biểu hiện tiêu cực trên đây của chế độ mới hoặc không chống đối cách mạng nhưng bị xử lý oan. Họ viết những vấn đề rất gây cấn, họ tìm tòi sâu sắc, táo bạo. Người ta cố tình bỏ quên tác phẩm của họ, không để cho nhân dân biết tới họ. Mà sự thật nhiều tác giả trong số đó là những nhà văn hóa của Liên Xô và nhân loại. Bây giờ đã đến lúc phải đặt vấn đề trả lại những giá trị đích thực cho những tác phẩm của họ. Tên tuổi của họ dần dần được in lại. Tác phẩm của họ in hàng loạt làm chấn động dư luận, được nhân dân ngưỡng mộ nhưng không hề hoài nghi. Trước đây người cứ sợ làm lung lạc nhân dân. Nay khi tác phẩm của họ ra mắt công bố vì không thấy thiệt hại gì ngược lại thì nhân dân ủng hộ và càng tin Đảng, tin chế độ hơn. Một số nhà văn, nhà thơ, tác phẩm của họ in tới hàng triệu bản. Ba năm trước đây những tên tuổi ấy không được nhắc đến hoặc bị thóa mạ. Ví dụ như nhà văn thiên tài Platônốp chết năm 1950, tác phẩm bây giờ mới được in. Một nhà văn, gốc Nga, rất lớn, có phong cách nghệ thuật mới, tư tưởng lớn - Giamentin thì phải sống lưu vong. Mikhaiin Bunđakốp cũng trong trường hợp các nhà văn khác. Năm ngoái tạp chí Mátxcơxa in tác phẩm của Vlađimia Nabôcốp (lưu vong ở Mỹ). Đây là một nghệ sĩ lớn thiên tài, phong cách độc đáo không ai có thể bắt chước được. Lần đầu tiên người ta in lại thơ của một nhà thơ lớn bị cách mạng xử lý oan năm 1951, (từ lúc ấy không còn ai nhắc đến tên ông). Đó là Nicôlai Bunicốp, chồng của Acmatôva và là thầy của Exêin. Một trường hợp khác như nhà thơ đồng quê Nga cũng bị xử lý oan 1930, vì bị xem là đại diện cho tư tưởng Kulắc tên là Gluítx. Ông là người biến những môtip của thơ ca dân gian Nga thành vũ trụ thi ca. Vlađimia Letnhicốp, một nhà thơ phức tạp, có những sáng tạo về ngôn từ rất tuyệt vời, một người tử vì đạo, có thể nói ông đã tạo ra ngôn ngữ thi ca mới cho loài người. Những năm gần đây người ta cũng đã cho xuất bản cả những tác phẩm tượng trưng chủ nghĩa...

Sự đổi mới là tất nhiên, tất yếu. Sự đổi mới trong nhìn nhận, đánh giá, sáng tạo nghệ thuật cũng vậy. Chúng tôi, và tất nhiên tất cả chúng ta, ai cũng mong mình mang một khuôn mặt thôi. Khuôn mặt từ nhà, ra đường, đến cơ quan chỉ một.

Huế 2-3-87
HOÀNG VŨ THUẬT ghi

(SH25/6-87)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔ NHUẬN VỸ(Nhân hội thảo con đường văn học Việt Nam vào Hoa Kỳ tổ chức tại Hà Nội từ 31/5 đến 3/6)

  • KHÁNH PHƯƠNGMột năm, trong tiến trình văn học, thường không có ý nghĩa đặc biệt nếu không nén chặt các sự kiện nghề nghiệp quan trọng, mà không phải năm nào cũng có được duyên may đó.

  • (Tường thuật từ Hội thảo “Thơ đến từ đâu” ở Tạp chí Sông Hương)

  • LÊ XUÂN VIỆTHơn bảy năm qua, kể từ ngày Bình Trị Thiên hợp nhất tỉnh. Trong thời gian ấy, hiện thực cách mạng đã diễn ra trên mảnh đất anh hùng này thật sôi động, lớn lao. Văn xuôi Bình Trị Thiên đã góp phần cùng với các loại hình văn học nghệ thuật khác phản ánh hiện thực đó, tạo nên món ăn tinh thần quý giá động viên, cổ vũ nhân dân xây dựng cuộc sống mới. Để thấy rõ hơn diện mạo của văn xuôi, chúng ta thử nhìn lại sự phát triển của nó.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGCó một người bạn cùng nghề, cùng lứa, một nhà văn viết truyện ngắn mà tên tuổi không xa lạ lắm đối với bạn đọc, có lần đã tâm sự với tôi như thế nầy: “Tôi không bao giờ muốn viết bút ký. Dẫu có những cái nó là thực đến một trăm phần trăm, nó là ký rõ ràng, thì tôi vẫn cứ uốn nắn nó lại đôi chút để thành truyện ngắn”.

  • NGUYỄN THỊ KIM TIẾNTiểu thuyết lịch sử là một loại hình tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử. Khác với các xu hướng tiểu thuyết khác ở đối tượng và cách tiếp cận hiện thực đời sống, tiểu thuyết lịch sử đã đưa đến một cách lý giải con người dựa trên cơ sở vừa lấy lịch sử làm “đinh treo” vừa tận dụng kết hợp những đặc trưng thuộc về thể loại tiểu thuyết, mang lại một kiểu tư duy văn học trong tiểu thuyết lịch sử nói riêng nhiều phương diện mới mẻ.

  • HOÀNG THỊ QUỲNH ANHTrương Đăng Dung dạo vườn thơ khi mới ngoài 20 tuổi, lúc đang còn là một sinh viên du học ở nước ngoài. Năm 1978, ông đã trình làng bài thơ “Âm hưởng mùa hè” trên báo Văn nghệ. Nhưng rồi công việc nghiên cứu và dịch thuật văn học khiến ông neo thơ vào lòng, ấp ủ bấy lâu nay.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ“Cốt truyện” là thuật ngữ quen dùng trong nghiên cứu văn học Việt Nam, chỉ một đặc điểm của tác phẩm tự sự có từ lâu đời, được dịch từ tiếng Nga siuzhet, tiếng Anh plot, tiếng Pháp sujet.

  • ĐỖ LAI THÚY1. Ở ta không biết tự bao giờ, trong số đông, đã hình thành một hệ giá trị: lý luận là nhất, nghiên cứu thứ hai, còn phê bình thì đứng đội bảng. Bởi thế mở nghiệp bằng phê bình và dựng nghiệp bằng nghiên cứu là đại lộ quen thuộc của nhiều người.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNThể loại tiểu thuyết đã ra đời và có lịch sử vận động khá lâu dài. Ít nhất, ở châu Âu, thể loại này đã có từ gần năm thế kỷ.

  • CHƯƠNG THÂUNói về sự nghiệp đấu tranh bảo vệ tổ quốc, chúng ta dễ dàng ghi nhận những thành tích của giáo dân, đặc biệt của các nhân sĩ trí thức, anh hùng liệt sĩ “kính Chúa yêu nước”.

  • Viện sĩ A-lếch-xan-đơ Đa-ni-lô-vích A- lếch- xan- đrốp là một nhà toán học lỗi lạc, đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khi ông mới 24 tuổi, sau đó nhiều năm giữ cương vị hiệu trưởng trường Đại học tổng hợp Lê- nin- grát. Ngoài toán học ra, ông còn quan tâm tới nhiều lãnh vực khoa học khác như đạo đức học, triết học, khoa học... Viện sĩ ưa thích làm thơ, và điều đặc biệt thú vị là ở tuổi 70, ông đã leo lên tới một trong những đỉnh núi của dải Thiên Sơn hùng vĩ... Sau đây là cuộc trao đổi giữa viện sĩ và phóng viên tờ “Nước Nga Xô viết”

  • LGT: Sau hơn chục năm nghiên cứu kết hợp với nhiều chuyến điền dã, ông Lê Quang Thái đã ghi chép lại Vè thất thủ Kinh đô (kể cả dị bản) trên cơ sở chú giải tỉ mỉ và cặn kẽ nhằm mở ra cho độc giả một cái nhìn bao quát về bối cảnh Kinh đô Huế ngày thất thủ và những năm tháng kế tục.Trân trọng tâm huyết và công lao của tác giả, Sông Hương xin giới thiệu tới bạn đọc một chương khá quan trọng trong công trình kể trên của ông Lê Quang Thái, hiện công tác tại Trung tâm Liễu quán Huế.S.H

  • LƯU KHÁNH THƠ“Hàng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường... Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO(Nhân đọc một bài viết của Lê Quý Kỳ)

  • HÀ VĂN LƯỠNG 1. Trên hành trình của văn học Việt Nam hiện đại mà nói rộng ra là văn học Việt Nam thế kỉ XX, bên cạnh việc phát huy và giữ gìn bản sắc và những truyền thống văn hóa dân tộc thì nhu cầu giao lưu, tiếp thu văn học nước ngoài, đặc biệt là văn học phương Tây để góp phần hiện đại hóa nền văn học dân tộc trở thành một nhu cầu cần thiết.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHVấn đề bản sắc địa phương trên tạp chí văn nghệ tỉnh nhà chúng ta đã có dịp bàn bạc, trao đổi nhưng chưa ngã ngũ. Có lẽ trong trường lực báo chí, tờ văn nghệ vẫn là chỗ nhạy cảm nhất về phương diện văn hóa. Hẳn nhiên, trong địa hạt ấy, tờ văn nghệ cũng là nơi khả kiến nhất về phương diện nghệ thuật. Câu hỏi đặt ra ở đây là bản sắc địa phương của tờ báo được xét theo phương diện nào? văn hóa hay nghệ thuật?

  • THANH THẢOCâu trả lời có vẻ đơn giản: văn học là... văn học. Nhưng trả lời như thế chính là đặt tiếp một câu hỏi, và lại một câu hỏi nữa, mà câu trả lời đâu như còn thấp thoáng ở phía trước.

  • TRẦN THỊ THANHĐặng Huy Trứ là một trong những gương mặt nổi trội của các nhà trí thức lớn Việt Nam ở thế kỉ XIX. Tài năng và trí tuệ tuyệt vời đã hội tụ trong con người ông.

  • NGUYỄN XUÂN HÒA Ưng Bình Thúc Giạ thị (1877 -1961) và Thảo Am Nguyễn Khoa Vi (1881 - 1968) là hai nhà thơ Huế giàu tài năng sáng tác vừa có mặt chung, mặt riêng, phản ảnh cuộc sống xứ Huế được nhân dân mến mộ, khâm phục.