LÊ TIẾN DŨNG
(Khoa Ngữ văn - Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh)
Ảnh: hcmussh.edu.vn
Thực tiễn giảng dạy văn chương hiện nay ở phổ thông cũng như đại học đang có tình trạng người giảng dạy ít chú ý đến phân tích cái hay cái đẹp của văn chương, mà thường thiên về nêu lên những nội dung xã hội, quan điểm, lập trường... Thực ra, giảng dạy văn chương mà phân tích nội dung xã hội, quan điểm lập trường không có gì sai trái. Nhưng dạy văn mà chỉ dừng lại ở đó thôi, thì xem như chưa giảng dạy gì về văn chương cả. Bởi lẽ, những nội dung ấy, cũng có thể tiếp nhận được ở nhiều bộ môn khoa học xã hội khác. Do thiên lệch này, mà nhiều giờ giảng văn, người học có cảm giác nó cũng giống như giờ chính trị, giờ lịch sử, hay giờ đạo đức... Trong một giờ thao giảng bài "Đồng chí" của Chính Hữu, một giáo viên dạy giỏi sau khi nêu chủ đề của bài thơ đã phân tích như sau: I- Cơ sở của tình đồng chí ; 1) Hoàn cảnh xuất thân. Ở phần này giáo viên phân tích rằng: hoàn cảnh xuất thân của đồng chí là giống nhau: quê hương đều nghèo (quê hương anh nước mặn đồng chua, làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá), thành phần gia đình đều thuộc bần cố nông (vì: Áo anh rách vai, quần tôi có hai mảnh vá)... Từ đó kết luận rằng: hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh quê hương giống nhau đã tạo nên tình đồng chí keo sơn.... Thật là một cách giảng thô thiển, mang nặng tính chất xã hội học dung tục. Ở một trường khác, khi giảng bài "Đất quê ta mênh mông" của Dương Hương Ly có nhiều giáo viên đã phân tích bài thơ ở mục I là "Sức mạnh Việt Nam" rồi thao thao bất tuyệt về sức mạnh của dân tộc Việt Nam trong suốt trường kỳ lịch sử, mà chẳng đề cập gì nghệ thuật của bài thơ....
Có thể dẫn ra đây khá nhiều trường hợp tương tự. Qua những hiện tượng ấy, chúng ta thấy rằng: dạy văn của chúng ta đang có khuynh hướng giảng dạy những điều ngoài văn chương, đạo đức hóa, chính trị hóa các giờ văn... Và như thế về thực chất là đánh rơi bản chất đích thực của văn chương. Phần phân tích nghệ thuật tác phẩm, thường được người dạy tách riêng ra với kiểu phân tích đại loại như: bằng nghệ thuật đối lập, bằng nghệ thuật ẩn dụ, bằng cách nói ví von so sánh, bằng cách dùng từ giàu hình ảnh... Nghĩa là chỉ nêu lên đặc điểm nghệ thuật của văn chương nói chung, chứ không phân tích cái đẹp của từng bài văn cụ thể. Và như vậy là chưa giảng gì về nghệ thuật cả.
Ở phía người học cũng có tình trạng tương tự. Học sinh khi phải bình giảng một bài văn, bài thơ nào đó nói những nội dung xã hội, những quan niệm lập trường thì rất thạo, còn vì sao bài văn ấy bài thơ ấy hay thường không nói được gì. Đề thi tuyển sinh vào đại học năm 1986 có câu: Hãy giải thích hai câu thơ Tố Hữu:
Trường Sơn Đông nắng, Tây mưa
Ai chưa đến đó như chưa rõ mình.
Khi làm bài này, rất nhiều thí sinh đã quay sang giải thích một hiện tượng khí hậu ở Trường Sơn vì sao Đông nắng mà Tây lại mưa, chứ không phân tích được ý nghĩa mưa nắng mà hình tượng biểu đạt.
Việc dạy văn và học văn ở bậc đại học cũng có những thiên lệch tương tự. Chúng ta dạy Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu cũng na ná giống nhau. Ông này yêu nước thương dân, thì ông kia cũng yêu dân thương nước, ông này đau đời thì ông kia cũng băn khoăn lẽ xuất xử ở đời... Đã có học sinh nói rằng: chỉ cần học một ông rồi tìm các dẫn chứng khác thế vào là hiểu được tất cả những người khác. Trong khi đó một phương diện quan trọng là nhà văn với tư cách là những cá tính sáng tạo độc đáo lại ít được chúng ta đề cập. Nghĩa là văn chương của từng người cụ thể chưa được giảng dạy một cách thấu đáo, và do đó chưa tạo nên được chân dung riêng cho từng người.
Một thực tiễn giảng dạy văn chương như thế là đáng báo động. Nguyên nhân của nó có lẽ là nhiều. Có thể do người giảng dạy còn non tay, có thể chương trình thiếu chọn lọc... Nhưng không thể nói đến những nguyên nhân chính trị xã hội cũng có những tác động không nhỏ đối với việc dạy và học văn. Người dạy văn chúng ta trong một thời kỳ dài được chăm sóc khá kỹ về quan điểm lập trường. Nỗi lo lắng của người dạy văn là sợ nói sai quan điểm, sai lập trường, chứ không phải ở chỗ là không nói được cái hay, cái đẹp của văn chương. Một giáo viên nói trật lập trường một chút thì có vấn đề, chứ giảng dạy thô thiển, diễn nôm tác phẩm, không hiểu nghệ thuật thì cũng chưa sao cả. Mặt khác, bản thản việc giảng dạy, nói cho được cái hay cái đẹp không phải dễ, cho nên thường quay sang diễn nôm tác phẩm. Mà đã diễn nôm thì chủ yếu là chú ý đến khía cạnh nội dung là tất nhiên.
Từ thực tiễn giảng dạy như vậy, hướng khắc phục như thế nào đây. Xin được nhắc lại đây ý kiến của Chủ tịch Phạm Văn Đồng trong bài nói chuyện "Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện" tại Bộ Giáo Dục ngày 8 tháng 9 năm 1973: "Trong một bài văn, ta có thể dạy cái hay, cái đẹp của văn, đồng thời có thể dạy bao nhiêu cái hay, cái đẹp khác trong đó về tâm hồn, về tư tưởng, về lẽ sống v.v... Cho nên chọn một bài văn là rất quan trọng"(1).
Như vậy, theo Chủ tịch Phạm Văn Đồng dạy văn là dạy cái hay cái đẹp của văn. Điều đó rất đúng. Một nội dung tư tưởng sâu nhưng không được thể hiện trong một hình thức tương xứng thì nội dung tư tưởng ấy cũng không có nghĩa về mặt văn chương là bao. Các buổi bình văn. Các cụ tâm đắc với những câu hay, từ đắt, nhãn tự... cũng là tâm đắc với chính cái hay cái đẹp của văn. Bây giờ đọc những bài phê bình văn chương, chúng ta tâm đắc với những lời bình hay. Thế thì tại sao lại không dạy văn cho học sinh bắt đầu từ cái hay cái đẹp của văn. Để rồi từ đó mà nói đến cái hay cái đẹp của tâm hồn, của tư tưởng, của lẽ sống... Tố Hữu đã có lần tự phân tích đoạn thơ mở đầu bài Mẹ Tơm như sau:
"Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa
Một buổi trưa nắng dài bãi cát
Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa
Mát rượi lòng ta, ngân nga tiếng hát...
Trong hai câu thơ sau có âm vang của gió và sóng, có cả âm vang của một tấm lòng. Nếu viết gió thổi lao xao, sóng biển rì rào thì có lẽ không còn gì. Hai câu thơ không chỉ tả cảnh mà còn tả tình trong cảnh. Nhịp điệu hai câu thơ là nhịp điệu của sóng gió và cũng là nhịp điệu của nao nức, xôn xao và biết bao sung sướng êm ái trong lòng người trở về quê cũ, nơi đã nuôi mình”(2). Ở đây chính tác giả đã bắt đầu từ vẻ đẹp của nhạc thơ toát lên vẻ đẹp của tâm hồn. Chúng tôi cho rằng giảng văn là phải giảng được những điều như thế. Nếu dạy một bài văn, mà chưa nói được cái hay cái đẹp của văn thì dù rất đúng lập trường, rất đúng quan điểm... theo chúng tôi vẫn chưa đạt. Dạy được cái hay cái đẹp của văn chương cũng là cách tạo ra sức hấp dẫn trong giờ giảng văn. Hiện nay sở dĩ học sinh không thích học văn vì một phần là do thầy giảng khô quá (Chữ khô chúng tôi dùng ở đây muốn nói chúng ta thiên nhiều về nội dung, quan điểm) mà còn ít chất văn quá. Để kết thúc mấy ý kiến ngắn này chúng tôi xin dẫn ra đây một nhận xét của nhà thơ Võ Văn Trực khi nói về phê bình thơ. Anh Võ Văn Trực viết: "Một số tác giả phê bình hầu như có thói quen khi nhận xét một tập thơ thế nào cũng có các phần tình yêu thiên nhiên, đất nước, đồng chí, tính đảng, tính giai cấp, tính nhân dân. Nghĩa là đầy đủ các thứ tính nhưng lại thiếu mất tính thơ. Cũng như anh con trai tán tỉnh cô con gái nào cứ khen nào là lập trường em cao, nào là công tác em tích cực nhưng quên khen một điều mà cô con gái nào cũng thích ấy là "sắc đẹp của em" (Báo Văn nghệ số 47 năm 1985). Tương tự cũng có thể nói như thế về dạy văn. Dạy văn mà không nói cái hay cái đẹp của văn cũng chẳng khác gì không biết khen cô gái đẹp. Và mong rằng, các nhà soạn sách chọn đúng những cô gái đẹp thật sự, chứ không phải những cô gái đẹp vì phấn son, áo quần.
T.P Hồ Chí Minh, 5.1988
L.T.D.
(TCSH46/04-1991)
---------------
1. Phạm Văn Đồng - Tổ quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người nghệ sĩ - In lần thứ 5 NXB Văn học HN 1983. tr. 377.
2. Tố Hữu - Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với dân ta, thời đại ta. NXB Văn học HN 1973. tr. 437.
Tham luận tại cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” của nhà thơ trẻ Lê Vĩnh Thái: "một lần ngồi uống cà phê tôi được một nhà thơ, người anh trong Hội thống kê về đội ngũ sáng tác trẻ nữ của cố đô Huế chỉ có vỏn vẹn chưa đầy 5 người mà tuổi đã ngoài 30, còn tuổi từ 20, 25 đến 30 thì không thấy!?... "
Từ cuối tháng 6. 2008, trên mạng Internet, cùng lúc có những bài viết về nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ và ở Quảng Trị, Quảng Bình. Các bài viết được đăng tải trên các báo điện tử nước ngoài (hoặc sách in ra được các tờ báo đó đưa lên mạng), cả trên tờ báo của một tổ chức chống nhà nước Việt Nam cực đoan nhất, và trên blogs của một số nhà văn trong nước (được một số báo điện tử nước ngoài nối mạng sau đó). Mục đích khác nhau nhưng các bài đó, tạm xếp vào hai loại, có một điểm giống nhau: DỰNG ĐỨNG những sự kiện của cuộc đời và hoạt động của các nhà văn nhà thơ này.
Thư Sông Hương Vậy là năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ III Công lịch đã qua. Mới ngày nào đó, khắp hành tinh này còn rộ lên niềm hoang mang và hoang tưởng về một ngày tận thế ở năm 2000 bởi sự “cứu rỗi” của Thiên Chúa hoặc bởi sự “mù loà” của máy tính. Mới một năm thôi mà thế giới loài người đã qua biết bao bất trắc, xung đột, khủng bố... và máu và nước mắt! May mà đất nước chúng ta vẫn được bình yên, ổn định, phát triển theo Đường lối Đại hội IX của Đảng. May mà dân ta vẫn còn nhu cầu Văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh cũng là thuộc tính của văn học nghệ thuật. Các tờ báo văn nghệ tồn tại được chính nhờ nhu cầu đó. Qua một năm nhìn lại, Tạp chí Sông Hương chúng tôi ngày một được bạn đọc tin cậy hơn, cộng tác càng nhiều hơn, thật là điều vinh hạnh. Song, ngược lại, chúng tôi cũng lấy làm áy náy vì bài vở thì nhiều mà trang báo lại có hạn, không thể đăng tải hết được, nhất là số Tết này. Ở đây, nó mang một nghịch lý chua chát, bi hài như một nhà viết kịch đã nói: “Số ghế bao giờ cũng ít hơn số người muốn ngồi vào ghế”. Ngoài sự bất cập ấy, hẳn còn có những điều khiếm nhã khác mà chúng tôi không biết làm gì hơn ngoài lời xin lỗi, lời cảm ơn và mong được thể tất. Chúng tôi xin cố gắng chăm lo tờ Sông Hương luôn giữ được sắc thái riêng, có chất lượng để khỏi phụ lòng các bạn. Dù thế giới có biến đổi thế nào đi nữa thì Sông Hương vẫn mãi mãi muốn được thuỷ chung với bạn đọc, bạn viết của mình. Nhân dịp tết Nhâm Ngọ, Sông Hương trân trọng chúc Tết các bạn sang năm mới thêm dồi dào sức khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. S.H
Các bạn đang cầm trên tay số kỷ niệm 25 năm thành lập Tạp chí Sông Hương. Mới ngày nào đó, một ngày hè tháng 6 năm 1983, trong niềm khao khát của không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật, Tạp chí Sông Hương số 01 ra mắt và đón nhận sự hưởng ứng của công chúng. Đó là một sự khởi đầu được mong đợi từ hai phía: người viết và bạn đọc.
Gần đây đọc các bài của Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Hùng Vĩ bàn về ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên Văn nghệ (1), tôi thấy câu "Nước biếc trông như tầng khói phủ" trong bài Thu vịnh là câu thơ sáng rõ, không có gì khó hiểu mà lại được bàn nhiều. Mỗi người hiểu mỗi cách mà đều hiểu không đúng, chỉ vì không để ý rằng câu thơ này được viết theo lối "đảo trang".
(Nhân đọc: "Truyện Mã Phụng - Xuân Hương") * Truyện "Mã Phụng - Xuân Hương" trước đây còn được quen gọi dưới nhiều tên khác nhau, lúc là Vè Bà Phó, Vè Mã Phụng - Mã Long, khi là Thơ Mụ Đội, khi lại là Truyện Mã Ô - Mã Phụng v.v... là một tác phẩm văn học dân gian vốn được nhân dân Bình - Trị - Thiên rất yêu thích, phạm vi phổ biến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 khá rộng.
Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?
Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.
Mang tên dòng sông duyên dáng thả mình bên thành phố Huế - SÔNG HƯƠNG, những trang tạp chí này là dòng chảy của những cảm xúc tươi đẹp trên “khúc ruột miền Trung” đất nước.
Từ xa xưa đến bây giờ, thường tục vẫn nói "sông có khúc người có lúc". Không biết Sông Hương bản báo năm rồi (năm tuổi 15) là sông hay là người? Có lẽ cả hai. Vậy nên cái khúc và cái lúc của nó đã chồng lên nhau - chồng lên nhau những khó khăn và tai tiếng!