Đất nước "Rũ bùn đứng dậy sáng loà" qua cái nhìn của nhà thơ Nguyễn Đình Thi

10:25 18/05/2009
NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

Đó là tâm trạng chung của nhân dân Việt Nam trong thời thuộc Pháp và đã được nhiều văn nhân thi sĩ như Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Nguyễn Tuân viết nên những tác phẩm sâu lắng thiết tha. Trong những năm cả dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ nhưng anh hùng, Nguyễn Đình Thi lần nữa, lại tiếp tục suy tư về Đất nước; và ông đã kết tinh nên những vần thơ đầy tính khẳng định tự hào về sự trường tồn của Đất Nước, về tinh thần bất khuất Việt Nam, quyết đưa đất nước từ bùn đen nô lệ, "rũ bùn đứng dậy sáng loà" giữa bầu trời tự do. Nhà thơ khoái cảm lâng lâng viết nên những vần thơ Đất Nước lạc quan yêu đời.
                        Mùa thu nay khác rồi......
                        Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
                        Gió thổi rừng tre phấp phới
                        Trời thu thay áo mới
                        Trong biếc nói cười thiết tha

Khi viết những dòng này, có lẽ Nguyễn Đình Thi đang bồi hồi nhớ lại những mùa thu trong quá khứ. Mùa thu với những người con của Hà Nội "ra đi đầu không ngoảnh lại", dẫu vẫn biết rằng sau lưng, tình mảnh đất nguồn cội liễm kết trong bao lá thu vàng, rơi đầy thềm nắng tiễn bước người đi. Hà Nội vốn luôn "ngựa xe như nước áo quần như nêm", mà vẫn có những ngày thu đặc biệt, đã trở nên lạnh lẽo trống vắng vô cùng:
                        Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
                        Những phố dài xao xác hơi may

Cùng với dòng trôi của thời gian, lịch sử dân tộc cũng biến chuyển theo chiều lạc quan. Thực tế ấy đã tác động sâu sắc vào tâm hồn thi sĩ Nguyễn Đình Thi, xôn xao cộng hưởng thành vần thơ được nối nhịp từ "Sáng mát trong như sáng năm xưa", đến "Đêm mít tinh" rồi cuối cùng hoà nhuyễn thành "Đất Nước" như một khúc tráng ca tự hào. Nhịp điệu của lời thơ dồn dập rộn rã. Hình ảnh thơ sinh động do được miêu tả bởi những từ láy tạo hình và biểu cảm như "phấp phới, thiết tha", lại thêm sự gắn kết bởi những vần trắc trong các từ "biếc, thiết", giúp cho người đọc liên tưởng thiên nhiên và con người như đang giao cảm hạnh phúc, qua một vũ điệu rộn ràng của niềm "vui bất tuyệt", thoả mãn cho khao khát tự do chờ đợi bị nén lại lâu rồi.

Nguyễn Đình Thi đứng trong rừng núi đại ngàn của quê hương, lúc thời gian đang vào thu, nhưng cảm nhận lại đầy sức sống, tươi vui, trong biếc như ngày xuân. Phải chăng cảnh quan trở nên đầy sức sống, bởi nó được khúc xạ qua đôi mắt hưng phấn của người nghệ sĩ; vì lịch sử của dân tộc đã qua rồi cái cảnh đông tàn, và đang bước vào giai đoạn "huy hoàng ngày xuân". Đó không còn là niềm ước mong khắc khoải của nhân dân Việt Nam, mà đã trở thành hiện thực đang diễn ra trên quê hương từng một thời ngút ngàn khói lửa chiến tranh. Nhà thơ nhìn rộng ra trong cõi Đất Nước mênh mang, mà đi đến những nhận thức đầy khẳng định tự hào:
                        Trời xanh đây là của chúng ta
                        Núi rừng đây là của chúng ta
                        Những cánh đồng thơm ngát
                        Những ngả đường bát ngát
                        Những dòng sông đỏ nặng phù sa
                        Nước chúng ta
                        Nước những người chưa bao giờ khuất
                        Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
                        Những buổi ngày xưa vọng nói về.

Khổ thơ được nhấn đi nhấn lại những định ngữ "...đây là của chúng ta". Từ trời xanh, núi rừng, cánh đồng, ngả đường, dòng sông... Đó là những yếu tố cấu thành Đất nước - Tổ quốc Việt Nam trong quá khứ và "của chúng ta" ngày hôm nay, Lời thơ với âm hưởng mạnh mẽ tự tin ấy không còn là câu thơ của cảm xúc mà là lí trí tỉnh táo, được viết bằng những cấu trúc câu đẳng thức có hệ từ "là", làm cho người đọc ý thức đó là chân lí hiển nhiên về quyền làm chủ chân chính đất nước Việt Nam là của người Việt Nam, như Lý Thường Kiệt từng tuyên bố gần ngàn năm trước:
                        Nam quốc sơn hà Nam đế cư
                        Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Quan niệm về lãnh thổ của Nguyễn Đình Thi so với người xưa có phần hiện đại và hoàn chỉnh hơn, bởi ý niệm của người xưa về lãnh thổ, về đất nước chỉ trải ra trên hai chiều dài rộng, cao như núi, dài như sông. Thời hiện đại, do sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nên lãnh thổ, biên giới của một quốc gia không chỉ giới hạn trong phạm vi đất liền sông núi, mà mở rộng ra cả về mặt hải phận lẫn không phận. Nguyễn Đình Thi khẳng định "Trời xanh đây là của chúng ta" là một ý niệm mới mẻ về quyền làm chủ bầu trời trên quê hương. Ý thơ gợi ta nhớ đến nỗi đau nhức nhối khi phải chứng kiến hình ảnh "Dây thép gai đâm nát trời chiều". Làm chủ được bầu trời mênh mang là không dễ, và trả lại cho bầu trời sắc trong xanh cũng đồng nghĩa với việc dập tắt được khói lửa của chiến tranh từng bốc lên đây đó trên các miền đất hồn hậu của quê hương, làm cho bao gia đình điêu linh tan tác, đến mức người nghệ sĩ mù Nguyễn Đình Chiểu bàng hoàng thốt lên câu thơ ghi lại chứng tích tội ác của quân thù:
                        Bến Nghé của tiền tan bọt nước
                        Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây

Hình ảnh quê hương đất nước hiện ra trước mắt Nguyễn Đình Thi là một giang sơn cẩm tú. Dưới bầu trời trong xanh là núi rừng hùng vĩ, là những cánh đồng bát ngát cò bay, thoang thoảng mùi hương cốm mới; là những con đường duyên dáng toả về khắp mọi nẻo quê hương; là những dòng sông âm thầm tải phù sa cùng năm tháng mang màu mỡ cho những cánh đồng đem lại bao mùa vụ bội thu, đem nguồn nước phục vụ cho đời sống bức thiết của con người. Đất nước Việt Nam tuyệt vời như thế, người con nào mà không nặng tình lắm nghĩa với mảnh đất ấp ủ nuôi lớn đời mình. Lời thơ của Nguyễn Đình Thi vừa là niềm khẳng định tự hào về quyền làm chủ đất nước, cũng là bày tỏ lòng biết ơn chân thành đất tổ quê cha. Phải chăng được tắm mình trong đất nước tự do, mà Nguyễn Đình Thi bùi ngùi thả dòng hoài niệm trôi xa về trong quá khứ lịch sử, lắng hồn giao cảm trong tầng sâu của đất, để nghe ra âm vang vọng về của tiên tổ thiêng liêng hào hùng bất khuất:
                        Nước chúng ta
                        Nước những người chưa bao giờ khuất...

Lời thơ được giản cách bằng một cụm chủ ngữ: "Nước chúng ta" như là một lời tuyên bố tự hào không chỉ với chính chúng ta, mà là cho nhân loại, cho các thế lực đen tối ngoại bang muốn cướp quyền làm chủ của ta hiểu ra tinh thần bất khuất Việt Nam. Đây là một phẩm chất có tính truyền thống, là sức mạnh vô địch để chiến thắng bao thế lực bạo tàn trong quá khứ và hiện tại. Các bậc tiên liệt dù đã khuất bóng, thân xác họ tan hoà trong đất mẹ; nhưng tinh thần, khí phách hiên ngang của các vị như hiển linh khắp sông núi, rì rầm trong đất đai, tồn tại trong ý thức và tình cảm của con cháu, như là một nguồn động viên cổ vũ lâu dài, đúng như Nguyễn Đình Chiểu khi tôn vinh những nghĩa sĩ Cần Giuộc đã khẳng định, dù họ về theo tổ phụ nhưng "linh hồn theo giúp cơ binh".

Con người Việt Nam vốn sống thuỷ chung theo châm ngôn "uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Thế hệ hôm nay được kế thừa Đất Nước do bao thế hệ đi trước trao lại, lẽ nào lại phôi phai bạc bẽo với bao lớp người xưa. Nguyễn Đình Thi nhắc lại những người đã khuất, nhắc lại lời "vọng nói về..." của họ trong cõi thiêng liêng, như dẫn dắt người đọc lắng lòng trở lại với lịch sử bốn ngàn năm văn hiến, để thấy ra trong ấy, lung linh dáng vẽ kiêu hùng của bao thế hệ ông cha trên vũ đài đấu tranh dựng nước, giữ nước và xây dựng phát triển đất nước, trở thành một chỉnh thể thống nhất, thon thả duyên dáng "từ mỏm Lũng Cú phía Bắc xa xôi cho đến mũi Cà Mau như ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm phía cực Nam Tổ quốc (ý văn của Nguyễn Tuân).

Đất nước của Nguyễn Đình Thi dù cảm xúc gợi lên từ buổi "sáng mát trong như sáng năm xưa", nhưng nó có khả năng làm sống dậy cả một quá khứ anh hùng, đồng thời mở ra trong ta niềm tin về một tương lai tươi sáng vẻ vang của Đất nước. Và tất nhiên nó cũng đưa chúng ta đến ý thức về trách nhiệm phải thực hiện tư cách làm chủ đất nước tốt nhất, để không phụ niềm kỳ vọng và sự hy sinh của cha ông, để chúng ta xứng đáng là con cháu của một dân tộc anh hùng, của những thế hệ từng làm nên Điện Biên Phủ lẫy lừng và đại thắng mùa xuân bảy lăm lịch sử.

Huế, tháng 4 năm 2003
N.T
(171/05-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.