Tượng danh nhân Đặng Huy Trứ - Ảnh: khamphahue.com.vn
Ông không những là nhà văn, nhà thơ lớn mà còn là một nhà kinh tế, chính trị, nhà cách tân yêu nước. Trong văn thơ ông phản ánh rõ nét nỗi trăn trở của một người tri thức trước công cuộc bảo vệ đất nước và ý chí duy tân tự cường. Những phẩm chất của ông đã được nhiều người ca tụng. Đương thời và hậu thế nhắc đến ông với tấm lòng yêu mến và cảm phục: Bạn bè ví ông như “chim bằng trong bão tố”, Phan Bội Châu coi ông như người “trồng mầm khai hóa đầu tiên ở Việt Nam”, “Vũ Khiêu cho ông", “là một nhân vật siêu phàm lịch sử”. Quả thật thơ văn và cuộc đời ông đã chứng minh: Ông là một nhân vật tầm cỡ mang tính thời đại. Lí tưởng lớn lao nhất mà ông nung nấu là khôi phục đất đai của Tổ quốc đã bị ngựa Tây giẫm đạp và cứu vớt sinh linh khỏi cảnh lầm than. Vì thế mà ông đã “cưỡi sóng đạp gió”, hùng dũng như “cánh chim bằng trong bão tố” để thực hiện lí tưởng của mình. 1. Tấm lòng của một trí sĩ yêu nước trăn trở trước công cuộc bảo vệ đất nước: Là một trí sĩ yêu nước ưu thời mẫn thế, Đặng Huy Trứ cũng như một số nhà trí thức chân chính cùng thời đều trăn trở trước sự tồn vong của đất nước. Ở ông có một khí chí lớn lao, một nghị lực phi thường và một lí tưởng cao cả. Ông không ham “ngựa béo, áo cừu”, ông chỉ có mỗi một điều ao ước duy nhất là lấy lại đất đai của Tổ quốc đã bị giặc Pháp dẫm đạp và cứu vớt muôn ngàn sinh linh ra khỏi vũng bùn lầy của sự đói khổ và chà đạp. Là một sĩ phu làm quan trong khi đất nước đang ở trong tay giặc, ông không vui với sự hưởng thụ mà luôn cảm thấy sự dằn vặt đau khổ về nỗi nhục mất nước. 6 tỉnh Nam Kì bị Pháp xâm chiếm chưa giành lại được, nỗi nhục yếu hèn, thua kém không bằng người làm ông băn khoăn, day dứt. Ông cảm thấy xấu hổ khi là một kẻ sĩ mà chưa tìm được cách gì để rửa được cái nhục ấy. Cả đời ông là sự phấn đấu không ngừng nghỉ cho một lí tưởng mà ông đã chọn. Trên giường bệnh ông cũng nghĩ đến Tổ quốc trầm luân. Ông đã phấn đấu không tiếc mình cho đến khi ngã xuống cũng còn muốn gửi thân nới chiến trận không muốn rời xa những người bạn đồng ngũ. Ý chí vì dân vì nước của Đặng Huy Trứ đã được hình thành và tôi luyện từ khi ông còn là một người thầy dạy học chưa ra làm quan. Sau mấy lần thi cử trắc trở Đặng Huy Trứ đã được đỗ đầu. Trong mười năm chờ bổ dụng ông đã có dịp tiếp xúc và hiểu biết những diễn biến cụ thể của đời sống xã hội. Nỗi đau khổ của nhân dân chính là nỗi đau khổ của ông. Do vậy khi dạy học ông thường viết những bài “Cáo yết” để nói lên tôn chỉ dạy học của mình: Học là để trở thành người có tài giúp nước, giúp dân chứ không giống những kẻ chỉ muốn trở thành cử nhân, tiến sĩ mà kì thực là “da báo thân dê, trong lòng rỗng tuếch”. Cái chí học để trở thành người có tài giúp nước, giúp dân được thực thi ngay từ đầu khi ông được cử đi quân thứ và cũng là ngày ông chính thức ra làm quan. Đứng trước nguy cơ của Tổ quốc, trước sự đói khổ của nhân dân Đặng Huy Trứ đã sớm xác định ý chí: Đối với quân xâm lược chỉ có một con đường là chiến đấu đến cùng để bảo vệ đất nước. Khi mới là một viên quan tập sự, nghe tiếng súng đầu tiên của giặp Pháp bắn vào Đà Nẵng, Đặng Huy Trứ đã nói lên tình cảm và trách nhiệm của mình thông qua bài “Vãng Đà Nẵng quân thứ tức sự” “Như kim Đà Nẵng nhất dương dị Hạp cảnh muôn dân bôn mệnh bì ... Tây chinh sĩ khí phong sương khổ. ... Nhục thực ngã như mưu vị quốc. Chiến hòa, dữ, thủ thục cơ nghi” (Một vùng Đà Nẵng rõ Tây Dương. Giữ nước quân dân mệt lạ thường ... Diệt thù, sương gió thương quân sĩ. ... Ăn lộc ví cùng lo việc nước. Tính sao? hòa, chiến, giữ hay nhường) (Đi quân thứ Đà Nẵng, ghi lại) Băn khoăn tự hỏi nên hòa, nên chiến hay nên nhường, nhưng cuối cùng quan điểm của ông đã nhất quán: Không thể hòa, không thể nhường, chỉ có một việc là chống Tây. Ông cũng nói: Việc lợi hại nhất quốc gia chỉ có một việc là chống Tây. Do vậy ông mong ước: “tiễu trừ được lũ bạch quỷ, thu phục được sáu tỉnh khiến cho ngựa Tây không dám chăn thả ở nước Nam, rửa hận thần nhân trả mối thù quân phụ” (Nghĩ sẵn bài thơ tạ thầy thuốc Quảng Đông Lương Nhận Thu khi bệnh ở mắt khỏi hẳn). Bởi vì đối với ông “ Bốn phương giặc giã đó là cái nhục của khanh đại phu” (Thư gửi Tổng đốc Thanh Hóa), cho nên ông sẵn sàng vì nước quên mình, đương đầu với giặc như Tán lí Nguyễn Duy (em ruột của Nguyễn Tri Phương) và coi Hàn Lâm thị độc Phạm Hinh là tấm gương sáng, khi thế cô lực kiệt sắp chết mà miệng vẫn còn chửi giặc. Còn như Binh bộ biện lý Ông Ích Khiêm xông pha tên đạn, vạn tử nhất sinh mà không sợ cũng được ông kính phục. Khi ốm ông đã tâm sự: “ Ngô khởi nam sinh úy tử nhàn. Thủy chung nhất niệm hệ quân thân”. (Ta há phải là người ham sống sợ chết. Chỉ trước sau một lòng lo việc nước nhà) (Tâm sự khi ốm) Vì trước sau một lòng chỉ lo việc nước việc nhà nên ông đã đứng về phía nhân dân, quyết chiến đấu chống giặc để giành lấy từng tấc đất của Tổ quốc. Là một nhà quân sự thuộc phái “Chủ chiến”, ông theo đường lối “nhân hòa” truyền thống để chống lại giặc ngoại xâm. Ông coi quân đội là “nanh vuốt” quyết định sự thắng lợi của trận đánh, coi dân là “huyết mạch” định sự an nguy của xã tắc. Ông không tin vào miệng lưỡi gian ngoan của bọn bạch quỉ. Do vậy ông không thống nhất với quan điểm của triều đình là giữ thái độ hòa giải, rồi hi vọng vào lời nói khôn khéo của sứ giả mong chuộc lại những tỉnh đã bị mất. Trong bài họa lại bài thơ của Tự Đức ông đã dám nói thẳng: “Chuyên đối thùy năng hàn tặc phủ. Phiến phàm qui sắc vọng trung giai” (Đối đáp ai là người có thể làm lạnh được lòng tham của giặc. Mà hi vọng cánh buồm kia trở về sẽ đem lại tin vui) (Mong tin vui của sứ bộ đi Tây) Quả thật giặc Pháp đâu có trả lại đất đai cho ta. Hành động và lời nói của chúng hoàn toàn trái ngược. Trước sự nhu nhược của những người cầm đầu triều đình phong kiến Huế, bọn Pháp càng dần dần lấn tới để thôn tính nước ta. Triều đình thì cứ giảng hòa và đầu hàng từng bước, còn Đặng Huy Trứ thì cứ đứng về phía nhân dân, cùng dân đáng giặc đến cùng. Khi thành Gia Định thất thủ, các đại thần cho rằng “Thuyền tàu súng đạn đều là cái sở trường của Tây Dương. Nay ta muốn ganh đua với các sở trường của chúng, đánh nhau với chúng, chưa có cơ tất thắng mà lỡ cơ sa lầy lại thêm gió thổi chim kêu cũng sợ hãi. Chi bằng lấy mình là chủ mà đối đãi với họ là khách” (1). Đặng Huy Trứ không nghĩ như một số vị quan trong triều. Ông cho rằng chúng có tàu thuyền súng đạn thì ta phải làm thế nào có thuyền tàu súng đạn để đánh trả chúng. Trong thời gian làm quan ông đã có những đề xuất làm hiện đại hóa quân đội, cổ vũ việc đóng tàu, đúc súng ống, mua đạn pháo của nước ngoài. Một lần đi theo Hoàng Kế Viêm thử pháo ở bến Triều, ông đã đặt niềm tin vào sức mạnh của nhân dân và khẳng định, nếu mình đồng tâm nhất trí thì sẽ tìm ra kế đuổi được kẻ thù. “Pháo thanh lôi động phong thiên lí Hỏa đạn thiên phi thủy vạn tầm Trực đãi thiêu tàn Tây tặc phủ. Kình đào thử hậu tịch vô âm”. (Pháo nổ sấm ran ngàn dặm gió. Đạn bay khói tỏa vạn tầm khơi. Chỉ chờ thiêu xác quân Tây hết. Từ đó kình nghê sẽ bặt hơi) (Theo hầu Bố chánh Hoàng Kế Viêm đi thử pháo) Kẻ thù bị thiêu xác hết nếu ta có vũ khí tối tân và quân đội dũng cảm có kỉ luật. Trong bài “Hoành doanh Sơn Tây” (2) ông đã đề ra quân lệnh để răn dạy tướng sĩ và động viên binh lính: Tất cả tướng sĩ khi lâm trận chỉ được tiến chứ không được lùi, khi hành quân đến bất cứ nơi nào cũng không được ức hiếp, xúc phạm và khinh nhờn dân, không được tơ hào một mớ rau, một que củi của dân. Trong hàng quân tất cả nhất nhất phải dưới sự điều động của tướng lĩnh, ai trái pháp lệnh sẽ bị chém đầu. Nhận rõ vai trò của quan võ trong lúc nhiệm vụ hàng đầu là phải đối phó với giặc, ông đã đặc biệt quan tâm cổ vũ các tướng sĩ. Ông là người có công sưu tầm và in binh thư gửi đi các nơi. Cuốn binh thư độc nhất của Việt Nam viết cuối Lê đầu Nguyễn Tây Sơn ngày nay còn giữ được là do chính ông đã có công sưu tầm và cho in ấn. Một mình ông đã in ấn và giới thiệu ba cuốn binh thư để giúp cho quân đội đương thời có tài liệu tham khảo. Với chí hướng xây dựng đất nước và chống giặc ngoại xâm, Đặng Huy Trứ đã để tâm nghiên cứu tìm cách mở mang nông nghiệp, tiếp thu kĩ thuật, kể cả phương Tây. Hai chuyến đi Hương Cảng và Ao Môn năm 1865 và 1867- 1868 đã chứng tỏ cách nhìn tiến bộ và thể hiện trách nhiệm của ông đối với dân với nước. Chỉ tiếc rằng: “Độc thi vô tài năng thoái lỗ Hùng tâm khảng khái ngũ canh kê” (Những thẹn không tài câu đuổi giặc Hùng tâm khẳng khái tiếng gà khuya) (Nằm trực trong nội các không ngủ) Ông không có tài để một mình đuổi giặc. Đạt được điều này là công việc chung của hàng ngũ vua quan. Nhưng trong lòng ông lúc nào cũng nung nấu một tấm lòng vì dân vì nước, những đêm không ngủ nghe tiếng gà gáy như thôi thúc chí khí anh hùng và tấm lòng khẳng khái của ông. 2. Một ý thức duy tân tự cường, tự trị: Phan Bội Châu đã từng nói: “Những năm cuối thời Tự Đức tân học chưa vào, đường biển chưa mở, nhưng đã có người bàn về đại thế của thiên hạ, nói nên kết giao với Anh, Đức không nên cứ ỷ lại vào Bắc triều, đã có người xin cử người xuất dương học binh pháp của Tây Âu: Thừa Thiên có Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ, Quảng Ngãi có Nguyễn Đức Thuấn (Đặng Đức Tuấn?); Nghệ An có Nguyễn Trường Tộ. Họ chính là những người đã trồng cái mầm khai hóa đàu tiên ở Việt Nam” (3) Như vậy, Phan Bội Châu đã xếp Đặng Huy Trứ là một trong những người có tư tưởng canh tân giống như Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch. Họ là “Những người trồng cái mầm khai hóa đầu tiên ở Việt Nam”. Đặng Huy Trứ cũng như một số người cấp tiến bấy giờ luôn nhấn mạnh đến công cuộc tự cường, tự trị. Nội dung tự cường, tự trị chủ yếu là tiến hành những cải cách mạnh mẽ làm cho dân giàu binh mạnh. Tự cường, tự trị cần phải khôn khéo, táo bạo. Công việc này đòi hỏi những người trí thức chân chính phải biết tiếp thu những kiến thức cổ kim đông tây, kế thừa phát triển để đưa xã hội tiến lên. Lịch sử đã đặt người trí thức trước những điều kiện mới về vật chất và tinh thần, khiến họ phải lựa chọn. Hoặc là cứ khư khư ôm lấy tư tưởng lạc hậu, bảo thủ của một xã hội trì trệ, hoặc rời bỏ sự ràng buộc của tư tưởng cũ để tiếp thu tư tưởng mới khi chủ nghĩa tư bản phương Tây đã xâm nhập vào và Đặng Huy Trứ đã theo xu hướng thứ hai. Ông là một nhà trí thức liên tục tìm kiếm những tri thức mới, mong tìm ra những phương sách để cứu dân cứu nước và như ông nói để: tự cường, tự trị. Ngay từ khi còn ít tuổi, ông đã nhận thức được việc học máy móc theo kiểu “Tầm chương trích cú” chẳng có lợi ích gì. Ông lên án cái thói học máy móc và tự xác định tài học của mình còn nông cạn, thiếu thốn. Cả thiên văn và toán học ông cho rằng mình chưa biết được là bao. Trong một bài thơ gửi cho anh là Đặng Huy Tá ông than phiền rằng: “Dương hành cửu dĩ am phong lãng Gia học hà thường thức giáp binh” (Vượt biển em đã từ lâu quen sóng gió. Nhưng cái học của nhà ta đã bao giờ cho chúng ta những kiến thức về chiến trận đâu) Nhận thức điều đó ông luôn trau dồi những kiến thức còn thiếu. Dưới thời Tự Đức, triều đình cấm phổ biến binh thư, nhưng đứng trước nạn ngoại xâm ông đã tự mình tìm đọc những sách về quân sự để tìm hiểu kế sách đánh giặc. Về sau này ông đã biên soạn và chú thích công phu cuốn sách “Vũ Kinh”. Ông nói: “Xưa nay thiếu gì những thư sinh phá giặc trừ gian, xông pha nơi thành đồng ao nóng, liều mình giữa mũi tên hòn đạn, thiếu gì những nhà nho ngồi trước chén rượu mâm cơm mà lòng vẫn nghĩ đến chuyện chế ngự kẻ thù, mặc áo cừu mang cân đai mà vẫn lo điều binh khiển tướng. Tôi chú thích sách “Vũ Kinh” là như vêỵ. Về sau này đến năm 1869 ông thành lập nhà in “Trí Trung đường” ở phố Thanh Hà (Hà Nội) rồi cho in hai cuốn binh thư gửi biếu bạn bè. Trong thư biếu sách gửi lên Tổng đốc Thanh Hóa là Tôn Thất Hành ông viết: “Bốn phương giặc giã đó là cái nhục của khanh đại phu. Muốn rửa nhục này không thể không đọc binh thư”. Nhờ có kiến thức quân sự trong binh thư mà khi được điều sang làm Thượng viện quân vụ ở Sơn Hưng tuyên, ông đã giúp Ông Ích Khiêm và Hoàng Kế Viêm trong việc thành lập các đội quân mới và xây dựng thiết chế kỉ luật trong quân đội. Cùng với việc xây dựng quân đội, ông là người đặt vấn đề đưa kinh tế và khoa học kỹ thuật lên hàng đầu trong sự nghiệp chống ngoại xâm và xây dựng đất nước. Quan điểm cấp tiến ấy đã được củng cố khi ông được phái đi Quảng Đông và tiếp xúc với những điều mới lạ của văn minh phương Tây bắt đầu du nhập vào Trung Quốc. Trước tình hình kinh tế nước ta ngày càng suy sụp, sản xuất thấp kém, đời sống khó khăn, Đặng Huy Trứ nhận thấy nhu cầu cấp thiết của đất nước là phải xây dựng một nền nông nghiệp vững chắc và phát triển thương mại cùng với việc khai mỏ, cải tiến hệ thống giao thông vận tải. Nếu thực thi những điều này tích cực thì trong mười năm trở lại có thể làm giàu cho đất nước và ta có đủ cơ sở để thắng giặc. Để giải quyết cấp thiết tình hình suy sụp kinh tế của đất nước ông nhận thức, thương nghiệp là một vấn đề cực kì quan trọng. Vượt qua quan niệm nho giáo coi đi buôn là một “ nghề mạt” ông đã tự nhận lấy trách nhiệm này để làm giàu cho đất nước. “... Nghề buôn bán dẫu là nghề nạt nhưng chịu ơn nước và tự xét mình xin đưa sức khuyển mã ra báo đáp, đảm nhận việc tài chính quốc gia, sớm tối lo toan, chạy khắp Đông Tây dẫu thịt nát xương tan vẫn không từ nan” (Tờ sớ tâu lên nhà vua). Với ý chí ấy năm 1866, nhà vua cho phép ông thành lập một cơ quan kinh tế thương mại lấy tên là “Bình Chuẩn sứ”. Chính điều này giúp ông cống hiến được nhiều công sức vào công cuộc tự cường, tự trị của đất nước. Những Lạc sinh điếm, Lạc thanh điếm, Lạc đức điếm... được mở ra và việc lưu thông hàng hóa đã diễn ra trong cả nước. Theo quan điểm kinh tế “Công tư lưỡng lợi” ông đã động viên thêm vốn của tư nhân cùng với vốn của triều đình cấp (năm chục ngàn quan là số vốn quá ít để ông mở mang thương nghiệp) nhằm thực thi những chính sách về thương nghiệp. Ông còn tổ chức việc khai mỏ, xuất cảng thiếc, tơ lụa, đường, dầu thảo mộc, quế sang Hồng Kông. Sự trao đổi hàng hóa với nước ngoài đã tạo nên một sinh khí mới cho nền kinh tế quốc dân. Để phát triển thủ công nghiệp, ông còn tổ chức các hộ sản xuất riêng lẻ theo ngành nghề và cho các hộ này vay vốn trước để mua nguyên liệu rồi bán hàng cho nhà nước. Quan điểm mới mẻ của ông cho đến nay hơn một thế kỉ nó vẫn đúng và có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế của đất nước phát triển. Tư tưởng kinh tế của ông quả là đã đi trước thời đại và vẫn còn giữ nguyên giá trị đến ngày nay. Quả thực “Sinh tài đại đạo sự phi sinh” (Làm giàu là một đạo lớn không thể xem khinh), chỉ tiếc rằng khi công viẹc đang có chiều hướng phát triển tốt thì Tự Đức nghe những vị thần bảo thủ đã xuống chiếu bãi bỏ cơ quan Bình Chuẩn, xóa bỏ những thành quả mà Đặng Huy Trứ đã đạt được với bao tâm huyết. Cùng với việc xây dựng kinh tế, Đặng Huy Trứ còn bỏ nhiều công sức trong việc khai thác những thành quả khoa học kỹ thuật của nước ngoài. Ông đã được đi Ao Môn và Hương Cảng hai lần (do được sự ủng hộ của Phạm Phú Thứ). Việc này làm ông thực sự phấn khởi. Phấn khởi không phải được lên xe xuống ngựa mà phấn khởi bởi lý tưởng của mình có dịp được thực thi. Có thể nhờ tiếp thu khao học kỹ thuật nước ngoài ông sẽ đóng góp phần nào vào việc phá bỏ sự trì trệ của đất nước. “Phì mã kinh cầu phi ngã chí Thừa phong phá lãng xứng ngô cuồng” (Xuống ngựa lên xe lòng chẳng thiết. Đạp bằng sóng gió tính thường ham) Trong thời gian ở nước ngoài ông thường gặp gỡ và trao đổi với nhiều nhà trí thức canh tân của Trung Quốc. Ông đã tiếp xúc với nền khoa học tiên tiến như việc chế tạo máy móc, đóng thuyền, đúc súng đạn... Thời kì này ông đã sau tầm sách báo nước ngoài, dịch ra và giới thiệu với các trí thức trong nước. Ông còn gặp gỡ động viên những người Việt Nam được cử sang Hương Cảng học nghề đóng tàu thủy chạy bằng hơi nước. Ông ghi chép tỉ mỉ kĩ thuật máy hơi nước được mô tả trong cuốn sách “Bát vận tân biên” của người Anh để đem về nước. Cũng trong dịp này ông đã mua được 239 khẩu “Quả sơn pháo”. Đặng Huy Trứ đã thực sự xứng đáng khi được bạn bè gửi gắm lòng tin lúc đi sứ: “Thù phương kĩ lưỡng nhàn miêu tả. Đại địa giang san túc phẩm bình. Vị thủy tương phùng tương biệt thoại. Hoàn đương ích quốc, dụ dân sinh” (Xem xét kĩ lưỡng tình hình bên ngoài. Đủ để luận bình về cái thế đại địa của giang san Gặp nhau nơi sông Vị để nói lời tạm biệt. Trở về đem lại ích lợi cho nước, giàu mạnh cho dân) (Giáo thụ phủ Kiến Xương Nguyễn Trạc Anh tặng khi đi) hay: “Huề qui ưng hãu tân thứ tứ, Hàn, Địch dư biên kỉ phẩm đề” (Khi về mong đem được một bồ tân thư, và soạn được mấy phẩm đề như Hàn Tín và Tống Địch Thanh). (Án sát Nam Định Phan Lập Khả tặng khi đi) Những mong mang điều hay về phục vụ, nhưng hoàn cảnh đen tối của đất nước bấy giờ khiến ông không có điều kiện thực hiện. Thực dân Pháp sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông đã chiếm nốt ba tỉnh miền Tây. Nhiều sĩ phu yêu nước bị chết. Trong khi ấy bên ngoài Minh Trị lên ngôi đẩy mạnh cuộc duy tân ở Nhật, còn Tự Đức chỉ tìm mọi cách để xin hòa với Pháp, cấm tất cả các huyện lị không được mộ quân, không được rèn đúc vũ khí. Tự Đức đã thực sự đi ngược lại trào lưu lịch sử và ngược lại ý chí của nhân dân, chính vì vậy đất nước ta lại rơi vào đêm tối của nghèo nàn lạc hậu. Đó chính là bi kịch của Đặng Huy Trứ và cũng là bi kịch chung của nước ta trong thời kì bấy giờ. Tuy nhiên, Đặng Huy Trứ vẫn được người đời khen tặng bởi những gì mà ông để lại. Tiến sĩ Cao Tử Đăng người Trung Quốc đã tặng ông hai câu thơ: “Đại gia văn vận tồn thiên cổ, Nam quốc nhân tài kiến nhất ban”. (Văn chương bậc lớn lưu thiên cổ, Đệ nhất nhân tài rạng nước Nam) T.T.T (139/09-00) ------------------------------------------------------------ (1) Đại Nam nhất thống chí, 1859, tập XXIX tr. 38 (2) Bài này ông viết thay bộ chỉ huy Sơn Bắc khi ông làm Thương biện quân vụ Sơn Tây. (3) Việt Nam Quốc sử khảo, NXB KHXH Hà Nội 1982, tr. 214 (4) Thơ văn trích trong bài đều tuyển trong sách "Đặng Huy Trứ, con người và tác phẩm", NXB TP. HCM 1990. |
THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm. VẠN HẠNH Thiền sư
HỒ THẾ HÀ Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết: Đào tiên đã bén tay phàm Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.
NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".
MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.
TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H
TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...
BẢO CHI (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...
ĐỖ LAI THÚY Văn là người (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.