“Với Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, GS Lê Thành Khôi đã trình bày lịch sử không phải lịch sử chính trị, mà là lịch sử của con người”, GS Phan Huy Lê nói về cuốn sử quý vừa ra mắt tại VN sau nhiều năm ở nước ngoài.
GS Lê Thành Khôi
Cuốn sách Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX -
Ảnh: Nhã Nam cung cấp
TS Nguyễn Thụy Phương, ĐH Paris Decartes, trong bài viết cách đây 1 năm, đã tôn vinh GS Lê Thành Khôi như di sản văn hóa sống của nhân loại, một bản thể chuyển giao và tiếp biến văn hóa Việt - Pháp ở ý nghĩa cao quý nhất. Ông cũng là người duy nhất giới thiệu với độc giả Pháp ngữ trên thế giới một cách hệ thống, uyên bác bề dày lịch sử, văn hóa, văn học VN. Nhưng bà Phương vương vấn nỗi buồn: “Đây đó, ông có những bài tiếng Việt nhưng chưa một công trình học thuật nào của ông được dịch in ở VN”.
Giờ đây, nỗi buồn đó sẽ không còn nữa. Hai cuốn sách cơ bản của GS Lê Thành Khôi đã được Công ty Nhã Nam dịch sang tiếng Việt và biên tập lại thành cuốn Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX. Hai cuốn đó là Việt Nam lịch sử và văn minh và Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1858.
“Đặt trong bối cảnh ra đời những năm 50 của thế kỷ trước, thì cuốn Việt Nam lịch sử và văn minh vừa là một quan điểm mới về sử học, vừa là một hình ảnh trung thực hơn về VN”, GS Phan Huy Lê nói.
Quan điểm mới, cái nhìn mới đó được đặt trên góc nhìn phản ánh phong cách đặc biệt của GS Lê Thành Khôi - cái nhìn liên ngành đa ngành. Trong khi lịch sử bấy giờ, kể cả lịch sử của các sử gia phương Tây viết, vẫn nặng về chính trị. “Ông đã cho thấy cách nhìn lịch sử không thể dừng lại ở lịch sử các vương triều. Lịch sử phải là lịch sử của con người”, GS Lê nói.
Viết về lịch sử VN, như thế với GS Khôi cũng chính là đi sâu vào cuộc sống, nhận diện lịch sử bao gồm toàn bộ đời sống xã hội. Có kiến thức dân tộc học, văn hóa học, khảo cổ học, kinh tế học. Một lịch sử của con người như thế trong sách, dễ làm người đọc xao xuyến. Trong khi, sự xao xuyến của lịch sử dường như xa xỉ với nhiều người đọc sử, nhất là người trẻ phải học sử đã hàng chục năm gần đây. Mặc dù, có thể nói, việc chuyển ngữ chưa được như giọng văn uyển chuyển, tinh tế mà bản gốc tiếng Pháp mang lại.
Những uẩn khúc của lịch sử
Bước qua những khô khan của biên niên sử, cuốn sử của GS Khôi khoan nhặt kể lại những uẩn khúc của lịch sử một cách khoa học. Nó cũng thấp thoáng bóng dáng một trái tim yêu nước ta, yêu sử ta. Có những tia sáng tí tách khi đọc tới đoạn văn có nhịp điệu vui khi ông mô tả những vết khắc, những đường thêu trên sống áo của người Mèo trắng, Mèo đen, Mèo đỏ, Mèo hoa, Mèo sừng. Có khi, độc giả sững lại rồi phập phồng khi ông viết về sự hình thành dân tộc tính của người Việt trong một nghìn năm đô hộ của giặc Tàu - nghìn năm dài hơn cả nghìn năm khác. Có cả sự khâm phục trước cách Khúc Hạo thoát khỏi kiềm tỏa Trung Hoa bằng cách xây dựng chính quyền khoan hòa mà đơn giản, miễn là nhân dân hạnh phúc...
“Đó là một thử thách khốc liệt. Nghìn năm mất nước là nghìn năm không chỉ đấu tranh chống đô hộ mà còn chống lại cả đồng hóa. Nghĩa là đấu tranh chống lại việc xóa bỏ lãnh thổ và văn hóa của người Việt. Ông đã rất tinh tế nhận ra bước phát triển sâu sắc của dân tộc tính, hình thành các dân tộc tính VN. Nên đã có mục riêng về hình thành dân tộc tính ấy”, GS Lê nói.
Chính vì thế, không mấy ngạc nhiên, khi hai cuốn sách của GS Khôi (được gộp lại trong bản in của Nhã Nam) đã mau chóng trở thành cuốn sách giáo khoa VN học của rất nhiều trung tâm nghiên cứu, trường đại học trên thế giới. Thậm chí, nhà dân tộc học gắn bó với Tây nguyên, Georges Condominas, đã tự nhận mình “gần như hoàn toàn lệ thuộc vào kiệt tác” của GS Lê Thành Khôi.
Và cuối cùng, cuốn sử quý đó đã trở về.
Nguồn: Trinh Nguyễn - TNO
ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)
MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.
NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.
VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.
Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.
CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.
ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.
HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.
FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.
Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.
ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.
PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.
NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.
TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.
Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.
PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.
...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...
…Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…
NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.