Cuộc vượt thoát của những người trẻ

10:00 14/02/2017

LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

Chúng ta có thể nghĩ, hiểu và làm văn học theo cách riêng mà mỗi cá nhân có thể tạo lập và mục đích cuối cùng là phụng hiến cho nền văn học với những giá trị phổ quát.

Đó là ước mơ, mong muốn thực hiện một quyền năng tạo hóa ban tặng: “quyền sáng tạo”. Bất kỳ một văn nghệ sĩ nào khó có thể chối bỏ sự ban tặng ngọt ngào đó, thay vào đó là sự theo đuổi, phụng hiến bằng tất cả ước mơ, đam mê và sức lực chúng ta sở hữu. Với những người trẻ, sự chọn lựa con đường/ nghề nghiệp/ mơ ước táo bạo hơn và dĩ nhiên niềm hy vọng luôn được dành chỗ.

Trong tuổi trẻ ngắn ngủi của mình, Hàn Mặc Tử đã dựng nên một cõi thơ riêng mình, đọc thơ Hàn là chạm vào trăng rực rỡ, vào tình yêu đắm đăm và nỗi đắng cay vô thường. “Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng...”, ấy là cái “sướng” của thi nhân vậy, là thái độ phụng hiến của như tuyên ngôn: “Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của Tình Yêu. Tôi đã vui, buồn, giận hờn đến gần đứt cả Sự Sống”. Rimbaud với tư cách một thi sĩ cách tân “Phải tuyệt đối hiện đại” và táo bạo “Hãy kính trọng kẻ bị nguyền rủa tột bực, tôi đã thét điều đó trên trái đất. Tất cả ham muốn thi ca đó để đạt “tới cái chưa biết” bằng sự “rối loạn lập luận mọi giác quan”. Thi sĩ phải biết khai thác những ảo giác, và phải bắt giác quan đi chệch ra ngoài những lối mòn rốt ráo để đạt được “cảnh giới”: “Triệt để phá lệ mọi cảm nhận”.

Và việc Viết, là sự chuẩn bị tất cả những tốt nhất có thể của Đi – học - đọc, là sự đối mặt can đảm với cô đơn sáng tạo và hành trình nhảy qua cái bóng của người khác và khó hơn là cái bóng của chính mình. Hãy “khơi những nguồn chưa ai khơi”, để tạo nên một dòng suối riêng cho mình.

Chữ có linh hồn, chữ đầy quyền năng sống. Từ những trang viết, chúng ta hãy xác định văn cách là kim chỉ nam đầu tiên của sự viết. Chẳng phải Phạm Quỳnh đã nói “văn là người”, tâm bấn loạn làm sao chữ tròn đầy. Đại thi hào Nguyễn Du mở vế “thiện căn ở tại lòng ta”, lấy chữ thiện làm đầu của tâm, là dây cung nâng mũi tên sang tạo bay xa. Tâm phát xuất từ bản chất thuần lương vốn có của con người: “bản lai vô nhất vật” hay “nhân chi sơ tính bổn thiện”, không lí gì chúng ta lại đi trật đường ray của chân lí. Con người là nhân lành của Trời Đất, thực hiện chi tiết sanh tồn mà tiến hóa. Gom gọn gọi là Tiểu vũ trụ, tiểu thiên địa. Gốc gác của ta là thanh tịnh. Tâm thanh tịnh, chữ sáng trong.

Con đường sáng tạo lắm chông gai và cũng đầy hương mật. Chữ nghĩa dễ làm con người ta si mê bao nhiêu thì “con quỷ” kiêu mạn lớn thêm bấy nhiêu. Chúng ta rất dễ bỏ rơi những đứa con tinh thần của mình, là hồn cốt, da thịt của chúng ta, thay vào đó là chạy theo những tấm thẻ màu mè, tạm bợ. Gốc sáng tạo được quyết định bởi độ trong trẻo của tâm. Mọi thứ đều do tâm tạo. Tâm trí tạo ra thế giới này và thế rồi thế giới lại tạo ra tâm trí. Những người viết trẻ phải truyền tải thông điệp tích cực cho mọi người. Truy bản thể của Văn, nguyên nghĩa là vẻ đẹp, tại sao không lau của Tâm mình sạch bụi để cảm được giọt sương tinh khiết ban mai kia. Tài năng có thể giúp chúng ta vươn lên đỉnh thành công một cách nhanh chóng, nhưng nó không thực sự giúp người ta nhớ đến bạn cũng như giúp bạn giữ được thành công của mình bằng “văn cách” đạo đức của bạn.

*

Những người trẻ, chúng ta phải sống cùng sức mạnh dẻo dai của mình trên trang viết. Việc hệ định lại những giá trị tư tưởng để chúng ta phụng hiến có thể là những quyết định lịch sử của chính chúng ta. Các thể tài văn học để có “sức công phá” lớn đều phải xây dựng, bồi đắp quanh mình hệ thống lý luận, hệ tư tưởng định hình cho phương pháp sáng tạo. Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hoá là xu hướng chính của mọi nền văn chương trong thế kỷ 21. Chúng ta bằng mọi giá phải tiệm cận được những chuyển động, thành tựu của văn học thế giới và tìm một chỗ đứng tương xứng với thể tính dân tộc.

Phải chăng cốt cách văn hóa, xuất phát điểm dân tộc và những nội lực khác chưa nhuần nhị để nhào nặn nên những tên tuổi “khổng lồ”. Chúng tôi quan tâm đến việc xây dựng một “tự sự về đất nước” (narrative of the nation) dưới ánh sáng văn học mà Stuart Hall và một số chuyên gia về văn hoá hậu thuộc địa nhìn thấy trong chủ nghĩa dân tộc. Đành rằng việc đào xới tất cả những câu chuyện, hình ảnh, phong cảnh, biến cố lịch sử, di tích và phong tục có khả năng tượng trưng cho sự đoàn kết dân tộc… đã, đang làm nên một cuộc tạo dựng thành công, quy mô về “tự sự về đất nước” và sẽ mở ra những chiều kích táo bạo, thăng hoa hơn nữa.

Những người viết trẻ chúng ta cần thiết góp mặt mình trong những “tự sự về đất nước” thay vì những mục đích nào khác. Chính chúng ta góp phần trưng dẫn và phát huy Việt tính trong dòng chảy Toàn cầu hóa. Sự tôi luyện đủ cứng cáp để diễn trình thứ “hiện thực thậm phồn” (hyperreal)bằng tiếng Việt, mà chúng tôi nghĩ nó sẽ làm rạng danh cho xứ sở. Một thực tế rằng chủ nghĩa hiện thực không còn giữ địa vị của một khuynh hướng sáng tác chủ đạo. Chúng ta không thể đánh giá cao vẻ đẹp của một tác phẩm nếu chúng ta không chịu tìm kiếm cái gì khác bên trong nó và tại sao chúng ta chỉ giới hạn lại việc thấu hiểu một cảm giác hiện thực.


Nhà phê bình trẻ Đoàn Huyền đã nói về thực tế này “…quán tính và áp lực mạnh nhất của văn học Việt Nam cho đến thời điểm hiện tại vẫn là ám ảnh về hiện thực và quán tính phản ánh hiện thực trên những khuôn nền cũ”. Và tác giả cũng chỉ ra thứ “tinh thần phản hiện thực - phản hiện thực truyền thống của văn học Việt Nam. Tinh thần phản hiện thực muốn tách rời khung hiện thực trước mắt và mở rộng “biên độ” của hiện thực được phản ánh. Đó cũng là lối đi mới cho văn chương mà những người viết trẻ chúng ta nên chú tâm. Những “khung cửa hẹp” khác đã mở ra và ngày càng rộng thêm, như thành tựu của dòng văn học hiện thực huyền ảo, văn học hậu hiện đại hay những kiểu lục bát cách tân, thơ Tân hình thức và vô số sự tự do khác trong văn học… đã cho chúng ta thấy sự tiếp biến, phát triển và là vận hội để bàn tiệc văn học thêm đa sắc màu.

Những người trẻ cần tự do, tự do sống, tự do suy nghĩ, tự do đi, tự do đọc, tự do học, tự do viết, tự do trong tất cả những thứ cần được tự do. Chẳng phải Albert Camus đã nói “Tự Do không là gì, nhưng là một cơ hội để trở nên tốt đẹp hơn”. Tuổi trẻ đang cho chúng ta cơ hội, chúng ta phải nắm chặt. Theo cảm quan riêng của chúng tôi, còn có thêm sự “tự do lạnh” cần thiết bổ sung cho những khoáng lượng tỉnh táo, riêng biệt của văn học. Mượn lời tác giả Linh Sơn - Cao Hành Kiện về nền văn chương lạnh, ở mức độ nào đấy, những người trẻ có thể vịn vào “Văn chương lạnh cần thoát ly để sống sót; nó là thứ văn chương từ chối bị bóp cổ bởi xã hội để tìm đến sự cứu rỗi tinh thần...”. Hẳn nhiên, các yếu tố tâm lí dân tộc - thời đại, hoàn cảnh lịch sử xã hội, thời tiết chính trị, những ham thích của các giá trị thị trường… ít nhiều tác động đến sự “tự do lạnh” ấy. Nếu một nền văn chương không có tự do đích thật, nền văn chương ấy sớm trở thành tiếng hót của loài chim nhại.

Tuổi trẻ rồi sẽ qua mau, tài hoa rồi cũng lụi tàn trước thời gian. Nếu nghĩ rằng chúng ta không đủ rủng rỉnh thời gian để phụng sự văn học, chúng ta phải chạy đua với thời gian, với sự tỉnh táo của trí tuệ, sức khỏe dần mối mọt theo nhịp kim đồng hồ. Không gì đo được thời gian, nhưng thời gian đo được cuộc sống đang hiện hữu, đo được nghiệp viết chúng ta đang theo đuổi. Đại văn hào William Faulkner trong “Âm thanh và cuồng nộ” đã nói lên hết tất cả những gì con người không thể tri nhận được về thời gian qua một đoạn văn ngắn: “Này Quentin ạ, cha cho con đồng hồ này, cha cho con nấm mồ chôn hết tất cả hy vọng và tất cả ham muốn… con sẽ dùng đồng hồ này để qui hết tất cả kinh nghiệm loài người vào chỗ phi lý… tất cả nhu cầu của đời con sẽ không bao giờ được thỏa mãn, cũng như tất cả nhu cầu của những người chung quanh con, của cha con cũng thế. Cha cho con có cái đồng hồ này không phải để con nhớ đến thời giờ, mà để con có thể quên nó trong một khoảnh khắc để con đừng hì hục mệt nhọc cố gắng chinh phục nó.”

Nghiệp viết suy cho cùng là cái duyên phú, là sự phân công của xã hội để giữ lại hồn cốt, tâm lý, thể tính của thời đại chúng ta đang sống. Chúng ta may mắn sống trong hòa bình, nhiều cơ hội, thuận lợi được mở ra cho văn chương. Ngoài kia, “những chân trời không có người bay” vẫn đương chờ chúng ta gặt mây và hái nắng. Trong sự lang thang cùng con chữ, “tìm giới hạn” và “chỗ đứng một và chỉ một” của chúng ta khả dĩ “mua vui cũng được một vài trống canh” ấy là đã là vượt thoát khỏi vũ môn - cái tôi nhỏ bé của mình rồi.

L.V.T.G  
(TCSH335/01-2017)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LGT: Anders Cullhed (sinh 1951) là giáo sư Văn học So sánh ở Đại học Stockholm, Thuỵ Điển. Ông viết luận án Tiden sòker sin ròst (Thời đại đang tìm kiếm tiếng nói) 1982 về nhà văn hiện đại Thuỵ Điển Erik Lindegren với tập thơ thời chiến Mannem utan vàg (Con người không lối đi) với một mối quan tâm đặc thù về sự tương quan của tập thơ này với chủ nghĩa hiện đại Pháp và Anh, với truyền thống văn học và với sự sụp đổ hệ thống tư tưởng đương đại gây ra do thế chiến thứ 2.

  • NGÔ MINH Xa Hà Nội (Nxb Văn học 2011), cuốn tiểu thuyết thứ 3 và tập văn xuôi thứ 7 của nhà văn Nhất Lâm vừa ra mắt bạn đọc đầu tháng 9-2011. Tôi đọc một mạch hết 334 trang sách. Cuốn sách đặt ra nhiều vấn đề thú vị về cuộc sống và thời cuộc rất đáng suy nghĩ, chiêm nghiệm.

  • NGUYỄN QUANG HUY Hình thù của văn học không thể đến từ cuộc sống; nó chỉ đến từ truyền thống văn học; và vì thế cơ bản là đến từ thần thoại.                                                  N. Frye

  • LGT: Tiểu thuyết Vùng lõm của nhà văn Nguyễn Quang Hà được giải nhì cuộc thi tiểu thuyết lần thứ 3 của Hội Nhà văn Việt Nam 2006 - 2010. Ngày 24 - 10 - 2011 Hội đã tổ chức tọa đàm tiểu thuyết Vùng lõm, Sông Hương xin giới thiệu bài tham luận của nhà văn Đỗ Ngọc Yên.

  • ĐẶNG TIẾN Thanh Tịnh là nhà văn có sự nghiệp dài hơn nửa thế kỷ, với số lượng trước tác dồi dào, đa dạng. Nhưng kỷ niệm bền chặt nhất mà ông để lại trong lòng người đọc là tập truyện đầu tay Quê Mẹ, 1941, với hình ảnh thơ mộng của làng Mỹ Lý và buổi tựu trường trong truyện Tôi đi học.

  • THÁI BÁ VÂN ĐỜI SỐNG VẬT THỂ VÀ ĐỜI SỐNG HÌNH TƯỢNG

  • THANH MẪN Tôi khóc những chân trời không có người bay Lại khóc những người bay không có chân trời.                                 (Trần Dần)

  • NGUYỄN VĂN HẠNH Văn chương là một hiện tượng không ngừng vận động, không ngừng đổi mới, từ môi trường xã hội văn hóa này sang môi trường xã hội văn hóa khác, từ nhà văn này sang nhà văn khác.

  • L.T.S: Soutchat Sawatsri nhà thơ và viết truyện ngắn chủ bút báo "Thế giới sách vở" vừa là một nhà phê bình có uy tín ở Thái Lan. Trong bài "Thời đại và con người" đăng trên báo Pháp "Thế giới ngoại giao" năm 1983 Soutchat Sawatsri đã giới thiệu tóm tắt đầy đầy đủ các bước phát triển của văn học Thái Lan hiện đại.

  • NGUYỄN HỮU ĐÍNH Phan Huy Chú, tác giả «Lịch triều hiến chương loại chí», ở mục «Lễ táng sơn lăng», «Lễ nghi chí», viết «Ngọ Phong họ Ngô (1) nói: đời xưa thiên tử chết, bảy tháng mới chôn, chỗ đất chôn gọi là sơn lăng - Lăng đều có tên».

  • TRẦN HUYỀN SÂMGiản dị, nhưng lay động và ám gợi một cách siêu hình, nhà thơ sống ẩn dật Tomas Transtromer đã được Hội đồng Hàn lâm Thụy Điển vinh danh giải Nobel văn học 2011.> Những nét gạch xóa của lửa

  • NGUYỄN DƯ Mời các bạn đi… xem hát. Đúng hơn là xem chữ hát (h)… của tiếng Pháp. Lại chuyện Ăn cơm nhà vác ngà voi! Ngà voi còn nhẹ chán. Ngà mammouth cũng đành phải xông vào mà vác. Vác giùm cho… lịch sử, địa lí Việt Nam. Ủa! Trời đất! Đùa hay thật vậy?

  • TRẦN THỊ MỸ HIỀN Ngô Kha là một trong số ít những nhà thơ có số phận khá đặc biệt trên thi đàn Việt Nam. Sinh năm 1935 ở Thế Lại Thượng (thuộc thành phố Huế ngày nay), ông tốt nghiệp thủ khoa khóa 1 Đại học Sư Phạm Huế (1958 - 1959), tốt nghiệp Cử nhân Luật khoa (1962), sau đó dạy văn và giáo dục công dân ở các trường Quốc Học, Hàm Nghi, Nguyễn Du, Hưng Đạo ở Huế từ 1960 cho đến khi bị thủ tiêu vào 1973.

  • KHÁNH PHƯƠNG Với “Đội gạo lên chùa”, cuốn tiểu thuyết mới (NXB Phụ nữ, 6/2011), nhà văn Nguyễn Xuân Khánh tái ngộ độc giả bằng dòng văn chương ấm áp và cuốn hút, hứa hẹn những miêu tả, xét đoán tinh tế về tâm thức con người cũng như những bí ẩn thẳm sâu trong tiềm thức và văn hóa của một cộng đồng dân tộc.

  • HOÀNG THỊ HUẾ Xứ Huế là một vùng đất có nền văn hóa đặc sắc - vừa mang nét riêng vừa dung hợp với văn hóa Việt Nam và khu vực, trong đó có sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa dân gian, văn hóa đô thị cổ truyền và văn hóa cung đình - mà không vùng đất nào có được.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGNhững cuốn sách đã giữ một vị trí đặc biệt trong thế giới tuổi thơ của tôi; trước hết là những sách giáo khoa tôi đã học trong những ngôi trường đầu tiên của đời mình, dưới thời Pháp thuộc.

  • NGUYỄN KHOA ĐIỀM Tìm hiểu diện mạo văn học một vùng đất là tìm hiểu những vấn đề gì?

  • KHẾ IÊM Hãy cứ tưởng tượng, khi hội họa mang đồ vật vào trong tranh (Pop Art, thập niên 60), và rồi tranh lại bước ra ngoài giá vẽ để đi vào thế giới hiện thực (thập niên 70), thì thơ cũng đang có những chuyển biến mới, chụp bắt yếu tố đời sống để sử dụng như yếu tố thơ.

  • HOÀNG TÙNG Văn học đồng tính - LGBT (lesbian, gay, bisexual, transgender) literature đã từng một thời bị coi là đề tài cấm kỵ trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, cùng với những cuộc đấu tranh về quyền con người, đấu tranh về bình đẳng giới, sự thừa nhận của xã hội đối với giới tính thứ ba, đó cũng là lúc dòng văn học dành cho người đồng tính bước từ bóng tối ra ánh sáng…

  • NGUYỄN VĂN TẬN - HOÀNG THỊ ANH ĐÀO Thế kỷ XV - XVII, các nước phương Tây bước vào thời kỳ tích lũy nguyên thủy tư bản, những cuộc phát kiến địa lý đã mở ra một cuộc “cách mạng thương mại” thực sự ở châu Âu và đưa đến việc thiết lập mạng lưới giao thông mậu dịch hàng hải xuyên đại dương nối liền châu Âu với phương Đông.