Cuộc bội ước ráo hoảnh

08:58 21/10/2011
LÊ THĂNG LONG Sự ra đời của cấu trúc luận, giải cấu trúc đã kéo theo sự đổ vỡ của những quan niệm truyền thống mang tính phổ quát về nghệ thuật sáng tạo khởi thủy từ Platon.

Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Giờ đây tác phẩm văn học không còn là phát ngôn thuộc về ý hướng chủ quan của tác giả, không còn là địa hạt độc tôn để chủ thể sáng tạo quảng diễn tuyên ngôn của mình. Cái chết của tác giả đã tống tiễn cha đẻ của tác phẩm bước sang một quỹ đạo khác, trên quỹ đạo đó người cha của tác phẩm chỉ đứng nhìn và im lặng trước sự đồng sáng tạo trong những kiến giải khác nhau của tha nhân. Khi dựa vào túi khôn của lí trí trong hệ thống lý luận phê bình văn học, người ta ngỡ ngàng nhận ra văn học đương đại không còn là tấm gương phóng chiếu hiện thực bằng những diễn ngôn tường minh. Văn bản tác phẩm không còn là con đẻ ngoan hiền của hiện thực mà trở thành những bản thế vì mang màu sắc ngụy tạo, văn bản là sự nối kết nhiều dạng thức văn bản khác trong nó, tất cả thâu tóm và hỗn chứa trong trò chơi liên văn bản của người sáng tạo.

Khi nhà ngôn ngữ học Ferdinand de Saussure đưa ra lí thuyết ngôn ngữ học tổng quát thì những người kế tiếp ông khước từ sự chăm chú vào khía cạnh lịch sử của ngôn ngữ mà thay vào đó, người ta đi vào tìm hiểu sự hình thành và duy trì ý nghĩa của ngôn ngữ cùng với những chức năng của cấu trúc ngữ pháp. Từ đó các nhà cấu trúc luận, hậu cấu trúc đã nâng ngôn ngữ lên một tầm mới trong việc khai phá địa hạt sáng tạo văn chương. Giờ đây ngôn ngữ không còn ngủ yên trong chức năng phản ánh của nó mà góp phần vào kiến tạo sự hiện hữu của hiện thực. Ngôn ngữ trở thành ngôi nhà của hữu thể đã khiến cho tác giả bị đánh bật ra khỏi cuộc chơi mà mình chính là người châm ngòi cho cuộc chơi đó. Tác giả giờ đây không còn là chủ thể toàn trị trong diễn ngôn của mình như trong hệ hình cũ. Bây giờ những vấn đề có tính chất hệ lụy tới văn bản như nhà văn, hiện thực xã hội, lịch sử, văn hóa dường như bị loại trừ khỏi cuộc chơi. Thay vào đó văn bản bước lên đài cao trong sứ mệnh làm trung tâm tạo nghĩa. Giải cấu trúc nhìn nhận rằng sự bất định là nơi mà con người và thế giới đang hiện tồn, cũng chính vì thế mà tất cả trở thành liên văn bản trong sự chằng chịt đan xen của những mảng màu khác nhau nằm ngoài mọi khế ước vĩnh cửu. Liên văn bản cũng là yếu tố đưa đến cuộc bội ước ráo hoảnh với nghệ thuật văn chương truyền thống. Là con đẻ của sự hôn phối giữa các mảng tri thức khác nhau trong bức tranh liên văn bản, giờ đây văn chương không còn là những bản tuyên ngôn đưa đến sự thấu thị hoàn mỹ nào cả. Văn chương không hướng tới những thông điệp mang tính chất phổ quát, không tham vọng làm bức tranh phản chiếu hiện thực, không còn một cấu trúc cố định bất biến. Phi trung tâm đã đưa đến một diện mạo khác cho tác phẩm, một diện mạo luôn luôn biến hình, lấp lửng lưỡng thê.

Từ đó văn chương hiện đại thế giới không ngừng hoài thai những hiện tượng lẫy lừng như Umbesto Eco, Garcia Marquez, Coetzee, Robbe - Grillet, Donald Barthelme, Italo Calvino …

Trước cuộc bội ước ráo hoảnh mà văn học đương đại thế giới dành cho những trào lưu văn học trước đó thì nhìn trên diện rộng văn học Việt Nam vẫn đang mãi ngủ mê trong diễn ngôn của một hệ hình cũ, chưa có sự vượt thoát lẫy lừng nào ra khỏi tư duy tiểu nông trong cảm quan của người sáng tạo. Nhưng dù muốn dù không, khi thế giới được làm phẳng bởi internet thì trong cái vùng lõm của một xã hội tiền hiện đại ở Việt Nam vẫn có sự xâm nhập của những mảnh nhỏ tư duy nghệ thuật đương đại trên thế giới. Những mảnh nhỏ của tư duy nghệ thuật hậu hiện đại trên thế giới đi vào miền sáng tạo của người viết Việt dễ nhìn thấy nhất đó là sự giễu nhại, giải thiêng, phi trung tâm, đưa vào trang viết những dự cảm trong chiều sâu nội cảm của vô thức, những hoang tưởng mang đậm dấu ấn tâm thức hậu hiện đại.

Trong “Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông – Nxb Hội nhà văn- 2011”, xét riêng về kết cấu, Nguyễn Vĩnh Nguyên đã làm một cuộc bội ước ráo hoảnh với mô thức kết cấu truyền thống trong văn chương Việt. Chúng ta nhìn thấy rằng không vì một lý do nào đó mà nhà văn khoan nhượng độc giả. Đây thực chất là một cuộc thăm dò để đi đến xác lập một diễn ngôn mới nhằm thoát khỏi sự ám ảnh lâu đời trong suốt hàng thập kỷ của một diễn ngôn cũ trong hệ hình cũ. Mỗi tác phẩm trong “Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông” không còn dấu vết của lối kết cấu theo dòng chảy logic của sự kiện. Những sự vụ trôi lăn bất định nằm ngoài quy luật và sự chi phối của lý tính thuần túy. Kết cấu trở nên xáo trộn, thậm chí vỡ vụn ra thành những mảng nhỏ, mang ý niệm của những tiểu tự sự rời rạc, chớp nhoáng. Dường như có một sợi dây nào đó ẩn đi trong suốt chiều dài của cuộc chơi ngôn từ mà Nguyễn Vĩnh Nguyên đang quảng diễn. Dưới lớp diễn ngôn tường minh hiển lộ ra bên ngoài thông qua văn bản còn có một thế giới khác ẩn ngầm. Chính thế giới ẩn ngầm đó tạo nghĩa, sản sinh ra ý niệm cho mỗi tác phẩm rời rạc trong cấu trúc. Thực ra điều này là một sự khiêu khích sự tri nhận của độc giả. Và văn chương thì thường như thế, người viết luôn muốn giấu đi những ý niệm của mình.

Không còn dựa dẫm vào những siêu diễn ngôn mang ý hướng phổ quát nên thế giới trong “Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông” là những lát cắt ngẫu nhiên được hỗn chứa trong hệ thống ngôn ngữ mang tính lưỡng thê, lấp lửng hai mặt của Nguyễn Vĩnh Nguyên. Dưới góc nhìn nội quan thì sự phân rã cấu trúc trong “Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông” đã vươn tới cực hạn. Sự phân rã này sẽ là một nỗi ám ảnh, thậm chí là đưa đến sự dị ứng trong lối tiếp nhận của những ai mang cảm quan nghệ thuật cổ điển. Và có thể nói sự dị ứng này là một điều hiển nhiên khi người đọc ở Việt Nam đã quen với những câu chữ trong sáng, dễ hiểu, những cốt truyện li kỳ, gay cấn, đậm màu sắc tải đạo, những kiểu kết thúc hoàn bị, tận kết...

Cũng từ góc nhìn nội quan chúng ta thấy chính sự tẩy trắng đã hậu thuẩn cho Nguyên Vĩnh Nguyên đi đến thực thi cuộc bội ước ráo hoảnh với văn chương truyền thống. Nguyên Vĩnh Nguyên đã tẩy trắng, mờ hóa những thứ mà theo tư duy nghệ thuật cổ điển là phải hiển minh: Những nhân vật mù mờ về danh tính, địa vị, những mảng không gian thời gian phi thực, thứ ngôn từ lấp lửng, hàm ngôn, những mặt người bất thần xuất hiện và biến mất trong văn bản tác phẩm khi chưa được tận quyết…

Xét cho cùng thì toàn bộ thực tại trong “Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông” đều giấu mặt sau những ẩn dụ mang màu sắc phi lí. Đó là sự báo hiệu và phơi bày một quái trạng bất khả cứu chuộc. Đó là nỗi hoài nghi về chân giá trị, nỗi hoang mang khi những điều hoang tưởng xen lấn trong đời sống trần trụi. Tất cả có thể trôi lăn tới vùng hủy diệt.

Trong rừng các nhà văn trẻ Việt Nam hiện nay khó tìm thấy một tác giả nào có đủ bản lĩnh trước trò chơi ngôn từ của mình. Nhìn một cách công bằng thì đã có sự xuất hiện của những dấu hiệu dấn thân và đổi mới. Không dám nói Nguyễn Vĩnh Nguyên có đủ bản lĩnh trong cuộc chơi cam go này nhưng thực sự “Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông” là một sự cảnh tỉnh về tư duy nghệ thuật cho người sáng tạo và sự đọc của những kẻ đồng sáng tạo. Cần phải vượt thoát những lề lối cũ trong tư duy tiểu nông để đôi cánh văn chương không mãi yếu mềm. Nguyễn Vĩnh Nguyên đã bội ước với đường xưa lối cũ trong văn chương Việt, đã vượt lên những điều cấm kỵ trong tư duy cổ hủ của người tiếp nhận. Văn nhân tham vọng tìm đến những miền đất không hạn định để đưa văn chương thoát khỏi sự nhàm chán nếu không muốn nói là thoát khỏi sự lâm nguy.

L.T.L

(272/10-11)







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM TRƯỜNG THI  

    Trong số các nhà thơ thời tiền chiến người quê gốc Nam Định, có ba nhà thơ mặc dù khác nhau là không được sinh ra cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, cùng một miền đất nhưng họ lại rất giống nhau là đều khóc tiếng khóc chào đời nơi vùng đồng chiêm trũng, nghĩa là nơi được xem là những cái rốn nước của tỉnh Nam Định.

  • HỒ HUY SƠN  

    Năm 2019, văn đàn Việt chứng kiến một cuộc chuyển giao trong đời sống văn học trẻ nước nhà. Thế hệ 8X vẫn cần mẫn viết nhưng có xu hướng trở nên lặng lẽ hơn; trong khi đó, thế hệ 9X lại đang có một sức bật không kém phần táo bạo, bất ngờ. Bài viết dưới đây nằm trong sự quan sát mang tính cá nhân, với mong muốn đưa đến người đọc những nét nổi bật trong năm qua của văn chương trẻ.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trong mấy thập niên gần đây, cái tên Nguyễn Thị Thanh Xuân không còn xa lạ với độc giả trong cả nước.

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH  

    Trong một tiểu luận bàn về Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại, học giả Trần Đình Sử xem “ngoại biên hóa chủ yếu là phương thức tồn tại thông thường của văn học”.

  • HỒ THẾ HÀ

    Mấy mươi năm cầm bút đi kháng chiến, Hải Bằng chỉ vỏn vẹn có 1 tập thơ in chung Hát về ngọn lửa (1980) ra mắt bạn đọc.

  • LÝ HOÀI THU    

    Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi.

  • LÝ HOÀI THU    

    Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi. 

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH  

    Trong thế hệ những nhà văn tuổi Canh Tý đương thời (sinh năm 1960), Hồ Anh Thái chiếm lĩnh một vị trí nổi bật. Càng đặc biệt hơn khi hình ảnh con chuột từng trở thành biểu tượng trung tâm trong văn chương ông. Nhân dịp Tết Nguyên đán Canh Tý (2020), hãy cùng nhìn lại cuốn tiểu thuyết được ông viết cách đây gần một thập kỷ.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO

    • Để chọn được những áng thơ hay, những người thơ có tài, người ta thường mở các cuộc thi, và cuối cùng là giải thưởng được trao.

  • PHẠM XUÂN DŨNG

    Nhà thơ Tố Hữu là người xứ Huế nhưng lại có nhiều duyên nợ với Quảng Trị, nhất là đoạn đời trai trẻ, đặc biệt là với địa danh Lao Bảo.

  • TRẦN THÙY MAI  

    Đọc tập sách của Nguyễn Khoa Diệu Hà, với hơn 30 tản văn, tôi có cái cảm giác như đang ngồi trên tấm thảm thần Aladin bay về một miền mà không có xe tàu nào đưa ta đến được một miền thương nhớ đặc biệt “Ở xứ mưa không buồn”!

  • NGUYỄN QUANG THIỀU  

    Có không ít các nhà thơ lâu nay coi sứ mệnh của thơ ca không phải là viết trực diện về những gì đang xẩy ra trong đời sống con người.

  • VŨ VĂN     

    Một mùa xuân nữa lại về, mùa xuân của hòa bình, của ấm no và những đổi thay của đất nước. Nhưng đã có thời kỳ, những mùa xuân của dân tộc đến vào những lúc chiến tranh vô cùng gian khổ, trong lòng nhiều người từng sống qua những năm tháng ấy lại dâng lên niềm thương nhớ Bác, nhớ giọng nói của Người, nhớ những lời chúc Tết của Người vang lên trên loa phát thanh mỗi đêm Giao thừa.

  • ĐỖ QUYÊN  

    1.
    Du Tử Lê
    thường được xem là một trong bảy nhà thơ hàng đầu của nền văn học miền Nam Việt Nam trước năm 1975, cùng với Bùi Giáng, Vũ Hoàng Chương, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Đinh Hùng, và Nguyên Sa. Cây thơ cuối cùng ấy đã hết còn lá xanh giữa mùa thu này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ    

    (Nhân đọc các tập truyện của Trần Bảo Định vừa được xuất bản)

  • LƯU KHÁNH THƠ   

    Giai đoạn giao thời ba mươi năm đầu thế kỷ XX đã chứng kiến sự thay đổi vị trí xã hội của người phụ nữ. Từ “chốn phòng the”, một số người phụ nữ có tri thức và tư tưởng tiến bộ đã mạnh dạn vươn ra ngoài xã hội, bộc lộ suy nghĩ, chủ kiến riêng và thể hiện con người cá nhân của mình.

  • PHẠM PHÚ PHONG    

    Trong vô tận (Nxb. Trẻ, 2019) là cuốn sách thứ mười ba và là tiểu thuyết thứ tư của nhà văn Vĩnh Quyền.

  • HOÀNG THỤY ANH

    “Đá”(1) là tập thơ thứ 5 của tác giả Đỗ Thành Đồng. Điểm xuyết, vấn vương một chút dáng dấp của “Rác”, “Rỗng”, “Xác”(2), nhưng thần thái của “Đá” đã khác.

  • ĐÔNG HÀ

    Mỗi dân tộc có một số phận lịch sử. Và lịch sử chưa bao giờ công bằng với dân tộc Việt chúng ta, khi trải qua hơn bốn ngàn năm, luôn phải đặt số phận con dân dưới cuộc chiến. Vì vậy, để viết nên trang sử nước nhà, không chỉ những chính sử gia, mà các nhà văn, nhà thơ, người cầm bút, không tránh chạm ngòi bút của mình vào nỗi đau của dân tộc.