Sự kéo dài của cuộc khủng hoảng virus corona có thể không chỉ làm thay đổi phương thức và lịch trình biểu diễn của nhiều nhà hát opera và dàn nhạc mà còn dẫn đến việc thay đổi cán cân quyền lực giữa nghệ sĩ và giới quản lý.
Khung cảnh trống rỗng của các nhà hát là chuyện quen thuộc trong thời kỳ đại dịch. Nguồn: NYT
Cơn khốn khó tài chính của các dàn nhạc
Cũng như ở châu Âu, cơn bùng phát virus corona khiến các buổi biểu diễn trên khắp Hoa Kỳ phải đột ngột tạm dừng. Vì vậy, nhiều dàn nhạc, đoàn ballet và nhà hát opera hàng đầu quốc gia này đã tạm thời cắt giảm lương nhân viên và một số đã ngừng trả lương hoàn toàn. Giờ đây, khi người ta hy vọng vaccine sẽ cho phép nối lại các buổi biểu diễn vào mùa thu tới thì lại bị một số lo ngại dập tắt bởi có thể sẽ phải mất nhiều năm nữa để phục hồi số lượng người mua vé. Nhiều tổ chức âm nhạc hiện làm việc với các tổ chức dạng công đoàn của mình để thương lượng về những cắt giảm lượng tháng dài hạn của các nghệ sĩ, điều mà họ giải thích là yếu tố cần thiết để dàn nhạc tồn tại.
Các công đoàn đóng vai trò quan trọng trong hậu trường ở nhiều tổ chức nghệ thuật. Các hợp đồng mà họ thương lượng không chỉ ấn định mức lương mà còn giúp thiết lập một phạm vi rộng những nhiều điều kiện làm việc, từ chuyện dàn nhạc phải có bao nhiêu thành viên thường trực cho đến chuyện cần bao nhiêu nhân viên hậu đài cho mỗi buổi biểu diễn và chuyện các buổi biểu diễn ngày Chủ nhật có yêu cầu trả thêm tiền hay không. Không có gì bất thường khi thấy các dàn nhạc lớn đột ngột kết thúc buổi tập giữa chừng – ngay cả khi một nhạc trưởng nổi tiếng đang chỉ huy – lúc đồng hồ diễn tập kỹ thuật số báo rằng họ sắp làm quá giờ.
Các nhân viên và nghệ sỹ nói rằng nhiều quy tắc này đã cải thiện sức khỏe, sự an toàn và nâng cao chất lượng các buổi biểu diễn; còn giới quản lý thường bực mình vì tốn thêm chi phí nếu làm theo yêu cầu này.
Cuộc khủng hoảng Covid-19 đang đặt ra một thách thức lớn đối với các công đoàn nghệ thuật biểu diễn vốn là các công đoàn mạnh nhất Mỹ trong những thập niên gần đây. Tình thế mà họ đang phải đối mặt thật sự khác biệt. Trong khi các nghệ sỹ tại một số dàn nhạc lớn, gồm cả New York Philharmonic và Boston Symphony Orchestra, đã đồng ý với những cắt giảm lớn mà hẳn không ai có thể tưởng tượng nổi nếu diễn ra trong khoảng thời gian bình thường trước đây thì ở nhiều dàn nhạc khác, người ta lại phản đối. Một số công đoàn lo ngại rằng những nhượng bộ mà họ đồng ý với các nhà quản lý dàn nhạc có thể còn chưa đủ bởi nhiều khả năng tình trạng cắt giảm lương bổng còn kéo dài sau đại dịch. Thomas W. Morris, người đã dẫn dắt nhiều dàn nhạc lớn ở Hoa Kỳ hơn ba thập niên cho biết: “Trước đây, các thỏa thuận lao động trong các ngành nghệ thuật biểu diễn dịch chuyển theo hướng tiền lương nhiều hơn và điều kiện làm việc tốt hơn. Và đột nhiên điều này không còn nữa, nghệ sĩ không còn sự lựa chọn nào khác. Có thể điều này sẽ tạo ra một thay đổi cơ bản trong mô hình tổ chức biểu diễn”.
Những thay đổi đang diễn ra ở khắp nơi nơi và không nơi nào không khí trao đổi giữa giới lao động và giới quản lý lại gay gắt và căng thẳng hơn ở Nhà hát opera Metropolitan, một tổ chức biểu diễn nghệ thuật lớn nhất nước. Các nghệ sỹ và nhân viên khác của nhà hát, mà nhiều người trong đó đã nghỉ phép không lương kể từ tháng 4/2020, đang phản đối đề nghị của ban quản lý là bắt đầu nhận lại mức lương bị giảm xuống còn 1.500USD một tuần thay vì phải chịu những cắt giảm lương dài hạn và những thay đổi nguyên tắc làm việc. Sau khi thất bại trong việc đạt được thỏa thuận với các nhân viên hậu đài, tuần trước nhà hát đã phải đóng cửa, ngay trước thời điểm lẽ ra là chuẩn bị cho một số người chủ chốt quay trở lại với nhịp làm việc thông thường để bắt đầu dựng bối cảnh cho các vở được chọn cho mùa diễn tới.
Tuy gay gắt và căng thẳng như vậy nhưng dẫu sao Nhà hát opera Metropolitan vẫn còn có khả năng thu hút người yêu opera. Ở nhiều dàn nhạc khác, tình trạng không khá như vậy và số lượng những nghệ sỹ đồng ý với những cắt giảm lương dài hạn ngày một tăng lên bởi họ nhận ra rằng có thể phải mất nhiều năm để khán giả nhớ đến và nhà hảo tâm vẫn cảm thấy sẵn sàng tài trợ cho âm nhạc sau đại dịch.
Tuần trước, New York Philharmonic đã công bố một hợp đồng mới trong đó mức lương cơ bản của nghệ sỹ bị giảm 25% cho đến giữa năm 2023, từ 153.504USD xuống còn 115.128USD một năm. Sau đó, tiền lương có thể sẽ được khôi phục phần nào nhưng các nhạc công sẽ vẫn kiếm được ít hơn so với trước đại dịch khi hợp đồng hết hạn vào năm 2024. Dàn nhạc giao hưởng Boston, một trong những dàn nhạc giàu có nhất nước, đã đồng ý với một hợp đồng ba năm mới khi giảm lương trung bình xuống 37% trong năm thứ nhất – do mất đi 35 triệu đô la tổng thu nhập bị mất đi kể từ khi đại dịch bắt đầu - tăng dần trong các năm tiếp theo nhưng chỉ phục hồi hoàn toàn nếu dàn nhạc có được doanh thu bằng ít nhất một phần ba doanh thu tài chính hằng năm. Nhà hát opera San Francisco đã đồng ý với một thỏa thuận mới trong đó giảm một nửa tiền lương của dàn nhạc trong mùa diễn này, nhưng có thể trong tương lai gần, phần lương tháng của các nhạc công sẽ được bù đắp lại phần nào.
Covid làm thay đổi quan hệ quản lý – nghệ sĩ
Tuy nhiên, tình trạng phải đối mặt với những thách thức tài chính đã thực sự xảy ra với nhiều tổ chức biểu diễn nghệ thuật phi lợi nhuận, gồm cả Nhà hát Opera Metropolitan, trước đại dịch. Và đại dịch càng đẩy thêm họ vào thế tuyệt vọng và giờ đây họ đang chiến đấu vì sự sống còn của mình, buộc phải cho nghỉ phép hoặc sa thải nhân viên hành chính và tìm kiếm sự “mủi lòng” của các công đoàn. Susan J. Schurman, giáo sư nghiên cứu về lao động và quan hệ việc làm tại Đại học Rutgers, nói: “Các công đoàn rất không sẵn lòng nhượng bộ; nó đi ngược lại tất cả những gì mà chiến lược công đoàn đã nói với các dàn nhạc trong hơn 100 năm qua. Nhưng rõ ràng ai cũng hiểu rằng đây là một tình huống chưa từng có”.
Nhưng tại một số tổ chức, gồm cả công đoàn tại Met và tại Trung tâm biểu diễn nghệ thuật John F. Kennedy ở Washington, nhân viên đang cáo buộc ban quản lý cố lợi dụng khủng hoảng để thúc đẩy những thay đổi trong hợp đồng công đoàn mà họ đã mong muốn từ lâu. Peter Gelb, tổng giám đốc của Met, muốn cắt giảm 30% lương nhân viên và chỉ khôi phục một nửa số tiền cắt giảm đó khi doanh thu phòng vé phục hồi. Ông hy vọng sẽ đạt được hầu hết các khoản cắt giảm bằng cách thay đổi các quy tắc làm việc. Trong một lá thư tháng trước gửi cho đại diện công đoàn của xấp xỉ 300 nhân viên tại Met, một công đoàn thành viên của Liên minh quốc tế người lao động sân khấu (International Alliance of Theatrical Stage Employees), ông viết: “Cuộc khủng hoảng y tế đã làm trầm trọng thêm sự yếu kém về tài chính trước đây của Met khi đe dọa chính sự tồn tại của chúng tôi”. Ông cũng viết rằng năm ngoái trung bình Met phải chi 260.000USD cho một nhân viên hậu đài làm việc toàn thời gian, bao gồm cả tiền trợ cấp. “Để Met có thể đứng vững trở lại, tất cả chúng ta sẽ phải nhượng bộ và hy sinh tài chính,” ông Gelb nói với các nhân viên trong một cuộc gọi video tháng trước.
Có 15 công đoàn khác nhau hoạt động tại Met, và trong khi các nhà lãnh đạo của một số công đoàn có quy mô lớn nhất cho biết sẵn sàng đồng ý với một số khoản cắt giảm và họ đang cố gắng giảm bớt ảnh hưởng của những thay đổi sau đại dịch và đánh giá lại các quy tắc làm việc mà từ lâu họ đã đấu tranh – đặc biệt là sau khi có rất nhiều nhân công ở dàn nhạc, dàn hợp xướng và vô số nhân viên hậu đài phải chịu đựng cảnh nhiều tháng không được trả lương. Qua tổ chức công đoàn thuộc Liên đoàn nhạc công Hoa Kỳ, dàn nhạc của Met cho rằng ban quản lý “đang lợi dụng tình cảnh tạm thời này để rút ruột hợp đồng lâu dài của chính những nhân viên góp phần tạo ra các buổi biểu diễn”. Tuy vậy Leonard Egert, giám đốc điều hành của Hiệp hội nghệ sỹ âm nhạc Hoa Kỳ, đại diện cho các thành viên của dàn hợp xướng, nghệ sỹ độc tấu, vũ công, quản lý sân khấu và những người khác tại Met, nói rằng các công đoàn đều nhận ra thực tế khó khăn mà Met gặp phải và sẵn sàng thỏa hiệp. “Chẳng qua là chẳng ai muốn tương lai gặp rủi ro”, ông nói.
Ở Washington, các nhân viên hậu đài tại Trung tâm Kennedy cũng đang đấu một trận tương tự. David McIntyre, chủ tịch một công đoàn, cho biết ông đã có những cuộc đàm phán gay cấn với Trung tâm Kennedy trong nhiều tháng về yêu cầu cắt giảm 25% tiền lương mà tổ chức này đưa ra, điều mà các thành viên công đoàn rất khó chấp nhận sau khi nhiều người trong số họ đã ra đi mà không được trả lương từ tháng ba. Ban quản lý cũng đang đòi hỏi những nhượng bộ, chẳng hạn như loại bỏ việc trả lương gấp rưỡi vào Chủ nhật, một sự thay đổi sẽ là vĩnh viễn thay vì chỉ giới hạn trong đại dịch. Các nhân viên hậu dài của công đoàn đặc biệt phẫn nộ vì Trung tâm Kennedy đã nhận được 25 triệu USD từ gói kích thích kinh tế liên bang được thông qua vào tháng Ba.
Vậy sự thật là gì? McIntyre nói: “Họ chỉ đang cố gắng đạt được sự nhượng bộ từ chúng tôi bằng cách tận dụng một đại dịch khi không ai trong chúng tôi làm việc”. Eileen Andrews, người phát ngôn của Trung tâm Kennedy, nói rằng một số công đoàn mà nó làm việc cùng đã chấp nhận những khoản cắt giảm lương, bao gồm các nghệ sỹ cùng Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia, và rằng cần thực hiện việc phục hồi sau đại dịch với “sự hy sinh chung”.
Vậy có lối thoát?
Các tổ chức âm nhạc rõ ràng đã mất hàng chục triệu USD doanh thu bán vé và triển vọng của các hoạt động tài trợ mà họ vẫn dựa vào để tồn tại vẫn chưa tiến triển. Trong khi đó các cuộc đàm phán công đoàn diễn ra trên mạng lưới cuộc gọi video thay vì quanh những chiếc bàn phòng họp điển hình, cả hai bên đều nhận ra sự mong manh của tình trạng tài chính.
Ở một số khía cạnh, đại dịch đã làm thay đổi cục diện đàm phán. Các công đoàn, vốn thường có uy lực cực lớn vì có thể dựa vào các cuộc đình công để tạm dừng các buổi biểu diễn, tuy nhiên điều đó giờ đây lại không thể khi chẳng có buổi biểu diễn nào để tạm dừng. Uy lực của ban quản lý cũng đã thay đổi. Trong khi lời Met đe dọa rằng sẽ khóa cửa không cho nhân viên hậu đài vào nhà hát trừ khi họ đồng ý với những khoản cắt giảm đã bớt tính uy hiếp hơn vào một thời điểm mà hầu hết nhân viên không làm việc, lời đề nghị bắt đầu thanh toán cho những người lao động đã ra đi mà không được trả lương từ tháng tư để đổi lấy các thỏa thuận dài hạn có thể khó cưỡng lại.
Tại một số tổ chức, ký ức về sự tàn phá của các tranh chấp lao động gần đây đã giúp thúc đẩy sự hợp tác trong cuộc khủng hoảng lần này. Tại Dàn nhạc Minnesota, nơi một vụ đóng cửa gây áp lực đầy cay đắng đã khiến phòng hòa nhạc tối đèn trong 16 tháng từ năm 2012, ban quản lý và các nghệ sỹ đã đồng ý cắt giảm 25% lương cho đến hết tháng tám. Và Dàn nhạc giao hưởng Baltimore, tổ chức từng vướng phải tranh chấp lao động gay gắt năm ngoái, đã xoay xở đạt được thỏa thuận về hợp đồng năm năm vào mùa hè này, cắt giảm mạnh lương của nhạc công ngay từ đầu trước khi tăng dần trở lại.
Lần gần đây nhất mà một cuộc khủng hoảng tầm quốc gia ở mức độ này ảnh hưởng đến mọi tổ chức biểu diễn nghệ thuật trong nước là trong cuộc Đại suy thoái, khi các tổ chức tìm cách cắt giảm để bù đắp cho sự sụt giảm hoạt động từ thiện và doanh thu bán vé, gây ra những cuộc đình công, những vụ đóng cửa gây áp lực và những tranh chấp gay gắt. Meredith Snow, chủ tịch Liên đoàn quốc tế các nghệ sỹ giao hưởng và opera, tổ chức đại diện cho nhạc công, nói rằng giới lao động và giới quản lý dường như đang làm việc với nhau một cách thân thiện hơn so với lần đó – ít nhất là cho đến lúc này.
Bà Snow, nghệ sỹ violin của Dàn nhạc Los Angeles Philharmonic nói: “Ngày càng có nhiều người thừa nhận rằng chúng ta cần trở thành một bộ mặt thống nhất, chúng ta không thể cãi vã nhau nhiều hơn nữa bởi việc duy trì sẽ dẫn đến việc cả hai đều sẽ xuống dốc. Bạn phải đi cùng nhau hoặc bạn sẽ chết chìm”.
Julia Jacobs
Nguồn: Ngọc Anh - Tia Sáng
Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...
Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.
1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.
Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.
Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).
*Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.
Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...
Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.
I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.
Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.
Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.
I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.
Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.
Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.
Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...
Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.
Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...
Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.