Nam Lê là nhà văn người Úc gốc Việt. Tập truyện ngắn mang tên The boat (Con thuyền) của anh do Thiên Nga và Thuần Thục dịch, Nxb Hội Nhà văn ấn hành năm 2011 đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá. Qua việc diễn giải một số khía cạnh thi pháp của tập truyện ngắn Con thuyền, bài viết mong muốn phần nào lan toả những vẻ đẹp của văn chương Nam Lê đến bạn đọc trong nước.
Trong tập Con thuyền, Nam Lê dành hai truyện cho chủ đề dân tộc. Nhà văn trẻ người Úc gốc Việt khao khát trở thành một công dân/ nhà văn toàn cầu nhưng không hề có ý định phủ nhận gốc gác của mình. Nói khác đi, những phẩm chất của một nhà văn “vượt lên trên bờ cõi và giới hạn” mà Nam Lê ao ước không mâu thuẫn với việc anh quan tâm đến đề tài dân tộc hay viết về dân tộc. Thậm chí, nhà văn đang sống xa cố quốc này đã từng bận tâm sâu sắc về mối liên hệ giữa mình và dân tộc trong tư cách nhà văn: “Tôi vẫn chưa hiểu mối quan hệ giữa tôi với Việt Nam trong tư cách nhà văn. Tuyển tập này là một khát vọng để minh chứng: tôi càng lúc càng ổn hơn với các băn khoăn này”(1). “Ổn hơn” là bởi qua tập truyện, người đọc có thể thấy rõ tình cảm nhà văn dành cho cố quốc sâu nặng như thế nào.
Hai truyện ngắn liên quan đến đề tài dân tộc được Nam Lê đặt ở hai vị trí quan trọng nhất của tập truyện là mở đầu và kết thúc. Cả hai đều liên quan tới cuộc chiến tranh ở Việt Nam trước 1975: một câu chuyện về những thuyền nhân Việt Nam âm thầm rời bỏ đất nước sau cuộc chiến (Con thuyền) và một câu chuyện nói về việc vì sao viết truyện về những thuyền nhân ấy (Tình yêu và danh dự và thương hại và kiêu hãnh và cảm thông và hi sinh). Cả hai tác phẩm đều giàu tính tự truyện. Qua đó, người đọc không chỉ hình dung được nhà văn đã ra đi trong tình thế nào, mà còn cả việc nhà văn đã sống trên đất khách ra sao. Điều khiến độc giả không khỏi ngạc nhiên là tại sao một người rời xa đất nước từ khi mới ba tháng tuổi lại có thể viết được những câu chuyện sâu sắc đến thế về Việt Nam. Thêm nữa là việc Nam Lê đã đưa vào tác phẩm một lượng lớn tiếng mẹ đẻ bao gồm thành ngữ, tục ngữ, phương ngữ, các đại từ nhân xưng... mà người chuyển ngữ dù đã rất cố gắng vẫn chưa thể diễn thuật hết được. Nhưng điều tôi tâm đắc nhất có lẽ là việc Nam Lê đã viết về dân tộc trên một tinh thần nhân loại. Cả hai truyện đều không nhuốm chút màu sắc chính trị nào. Mọi chất liệu hiện thực chỉ được huy động vào mục đích văn chương. Những ám ảnh về cuộc chiến tranh tàn khốc chỉ khiến cho người ta ghê sợ (Tình yêu và danh dự và thương hại và kiêu hãnh và cảm thông và hi sinh). Nỗi hãi hùng về một sự sống quá mỏng manh trên đường trốn chạy chỉ càng làm cho người ta thêm khát sống (Con thuyền). Nghĩa là, nói như nhà văn, nó cho người ta thấy một điều gì đó “rộng lớn hơn sự oán than, hiểm nguy hơn kí ức”. Bởi thế, chủ tâm chọn một đề tài lâu nay vẫn được xem là “nhạy cảm” cho những sáng tác về dân tộc - đề tài số phận của các thuyền nhân Việt Nam, người viết không nhằm mục đích “cho mọi người biết” những điều lẽ ra đã bị chôn vùi trong đống tro tàn quá khứ, mà để “cho mọi người phải nhớ” một bài học xương máu về chiến tranh. Tinh thần phản chiến này khiến câu chuyện dân tộc không bị giới hạn trong khung khổ của nó, mà trở thành câu chuyện của toàn nhân loại, câu chuyện của muôn đời.
Đi tìm bản thể của tồn tại, Nam Lê khao khát vượt lên mọi giới hạn không gian đối với sáng tác của mình. Trừ hai truyện mở đầu và kết thúc có tính tự truyện liên quan tới chủ đề dân tộc, năm truyện còn lại đề cập đến năm địa danh khác nhau, vào những thời điểm rất độc đáo khác nhau. Đó là một vùng heo hút của nước Úc - nơi một cậu học sinh trung học phải đối diện với nỗi sợ hãi từ lời thách thức của kẻ tình địch đến cùng lúc với cái chết gần kề của người mẹ (Vịnh Halflead). Đó là một xóm ổ chuột ở Colombia - nơi chàng sát thủ mười bốn tuổi sống giữa những cảm xúc yêu thương trong sáng và bạo lực hiện hình khắp nơi, đang nhìn thấy cái chết đến gần vì đã không chịu xuống tay thực hiện hành động giết mướn một người bạn thời thơ ấu (Cartangena). Đó là một đêm Tehran ngột ngạt với cô luật sư người Mĩ trong cơn khủng hoảng tâm lí, hoang mang trước lựa chọn đánh đổi quyết liệt của người bạn gái thân (Tiếng gọi Tehran). Đó là một buổi sáng trong vắt, cô bé Mayako nhìn thấy một ánh chớp, đang liên tưởng tới đèn máy chụp ảnh trong một kỉ niệm xa xưa thì quả bom nguyên tử dội xuống, cướp đi sinh mạng của em và rất nhiều người vô tội khác (Hiroshima). Đó là tâm trạng hãi hùng của ông họa sĩ già ở New York trước cái chết đang đến bởi bệnh trĩ và sự ghẻ lạnh của cô con gái duy nhất đã xa cách tới mười bảy năm (Gặp Elise). Quả là với tập Con thuyền, Nam Lê đã “thổn thức với những vẻ đẹp cùng nỗi đau của nhiều xứ sở”.
Tuy vậy, những phương diện hình thức như đề tài hay nhân vật, bối cảnh không gian hay các sự kiện lịch sử có tầm ảnh hưởng trên diện rộng… đều nhằm phục vụ cho nội dung tư tưởng mang tầm phổ quát: vấn đề số phận con người trước những thử thách của tồn tại. Trong cuộc đời, con người có thể phải đối mặt với những cảnh huống hoàn toàn cá biệt, nhưng phía sau những ứng xử độc đáo của một nhân vị tự do, nhà văn bao giờ cũng xác tín một bản năng sống. Đọc Nam Lê, người đọc có một cảm giác rất thú vị là luôn được khơi mở để cùng khám phá và mong muốn biểu đạt những cảm xúc sâu xa, những suy nghĩ kín đáo nhất của nội tâm. Nói khác đi, ngòi bút Nam Lê đã làm cho mọi ranh giới không gian, thời gian trở nên nhạt nhòa, thậm chí biến mất, để chỉ còn con người trước con người. Nhà văn trẻ đã làm được điều ấy bằng cách chọn cho đối tượng một thứ ngôn ngữ có khả năng biểu đạt chuẩn xác nhất. Phải chăng, đó là cách “để làm cho kì lạ có vẻ quen thuộc và quen thuộc có vẻ kì lạ” như cách nói của Patricia Cohen.
Văn chương pha nhuốm sắc màu hậu hiện đại buộc người đọc, nếu muốn thẩm thấu nó, phải có một vốn liếng văn chương không tồi. Bởi nhà văn nhiều khi không muốn chập làm một cái biểu đạtvà cái được biểu đạt. Tư duy hậu hiện đại không thừa nhận một thứ diễn ngôn quyền uy và mang tính phổ quát, do đó “không có siêu tự sự tinh thần làm cho tất cả đều yên ổn”(2). Phúng dụ cần xuất hiện để cho bên trong cái hình thức có vẻ ổn định ấy ẩn chứa những biến động không ngừng, để “dự báo sự sâu lắng không thể nắm bắt cũng như sự hỗn loạn đằng sau sự sâu lắng được cấu trúc của ngôn ngữ”(3). Các diễn ngôn của Nam Lê thường chồng chất phúng dụ. Mỗi từ, mỗi câu, mỗi hình ảnh đều chứa đựng hàm nghĩa. Chúng buộc người đọc phải không ngừng tưởng tượng, suy đoán, chú thích, liên hệ, chắp nối, xâu chuỗi..., ngõ hầu mở ra một cánh cửa bước vào thế giới nghệ thuật mà nhà văn đã kiến tạo. Nghĩa là, đến lượt mình trong tư cách chủ thể tiếp nhận, mỗi người đọc thay vì tìm kiếm cái ý nghĩa cốt lõi có sau văn bản, lại có quyền và hiển nhiên cấp thêm cho tác phẩm một ý nghĩa, giá trị riêng, bổ sung và mở rộng nó.
Trong Tình yêu và danh dự và thương hại và kiêu hãnh và cảm thông và hi sinh, các phúng dụ như dòng sông, viên đạn, người đàn ông và chiếc thùng phuy đựng xăng đang cháy, Linda, con số 14, cái đầu nhỏ kì lạ giữa đống gối hay bên trên chiếc áo lông phùng phình... đều có thể giúp độc giả tới gần với những suy tưởng sâu sắc của nhà văn về câu chuyện quá khứ liên quan tới chủ đề dân tộc. Dù không ai có thể xác quyết về một ý nghĩa độc tôn của diễn ngôn này, thì vẫn phải thừa nhận, rằng việc dùng phúng dụ để biểu đạt câu chuyện thế hệ giữa những người Việt tha hương, trong hoàn cảnh này, là hoàn toàn đích đáng. Bởi vì phúng dụ mang tính thời đại, thời sự. Chúng liên tục xác lập thêm nhiều nghĩa mới chồng lên những nét nghĩa đã có. Còn bởi, phúng dụ được xây dựng dựa trên một sự sai lệch về thời gian, “ý nghĩa bổ sung được hình thành một cách liên tục, nó phải kết cấu và làm cho cái ý nghĩa đã ổn định, hiển ngôn hay ẩn dụ trở thành thứ yếu”(4). Với đặc điểm văn phong này, cho dù dung lượng của tác phẩm không lớn, Nam Lê vẫn gửi gắm được rất nhiều thông điệp. Đây cũng là điều đã được tờ The Times khẳng định: “Truyện nào cũng đòi hỏi phải đọc chậm rãi và đọc hơn một lần” (theo bìa bốn của tập truyện Con thuyền).
Con thuyền của Nam Lê có khả năng kích tạo những hứng thú tinh thần mới nơi người đọc. Đọc tập truyện, ta hiểu thêm về mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính nhân loại của tác phẩm văn học, về cái gọi là đồng sáng tạo trong tiếp nhận văn chương.
Theo Lê Tú Anh - VNQĐ
______
1. Trương Quế Chi, Lên thuyền cùng Nam Lê, http://thegioicf.com/len-thuyen-cung-nam-le/
2, 3, 4. Trương Đăng Dung, Tri thức và ngôn ngữ trong tinh thần hậu hiện đại, tạp chí Nghiên cứu văn học, số 1/2012, tr.3-14.
Sau nhiều năm gần như ở ẩn, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh “tái xuất giang hồ” vào năm 2000 ở tuổi xấp xỉ 70 với tiểu thuyết Hồ Quý Ly đình đám.
Nhà xuất bản Kim Đồng vừa ra mắt hai tập tản văn mới trong bộ “Viết cho những điều bé nhỏ” chào đón Tết Nguyên Đán Kỷ Hợi 2019: “Tết xưa thơ bé” của tác giả Hương Thị và “Nhớ ơi là Tết” của tác giả Thái Hương Liên.
Cho dù được biểu đạt bằng thể loại gì, từ tản văn, truyện ngắn hay du khảo, thì người đọc vẫn nhận ra ở Nguyễn Trương Quý một tấm lòng thiết tha với Hà Nội. Anh vừa ra mắt cuốn sách thứ 8, du khảo Một thời Hà Nội hát (NXB Trẻ ấn hành), cũng nằm trong mạch nguồn đó.
Chân dung Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lê Minh Khuê... được khắc họa trên trang viết trong trẻo của nhà thơ.
Sách của tác giả Nhật là bản hòa tấu giàu cung bậc cảm xúc, khắc họa tình người, tình yêu âm nhạc trước cuộc sống khốc liệt.
65 tác phẩm xuất sắc được trao tặng Giải thưởng Văn học nghệ thuật năm 2018 của Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam tại Hội nghị tổng kết, trao Giải thưởng Văn học nghệ thuật năm 2018 và triển khai nhiệm vụ năm 2019 diễn ra ngày 9/1 ở Hà Nội.
Chúng ta đi tìm trong thơ tiếng nói của chính mình. Chúng ta nói trong những ước thúc chặt chẽ của ngôn ngữ và âm nhạc. Chúng ta nói chúng một cách tự do.
Cuốn sách “Vào mùa trăng” tập hợp 50 bài thơ tình được sáng tác trải dài theo năm tháng của giáo sư-nhà giáo nhân dân Hà Minh Đức - một trong những tên tuổi hàng đầu trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam.
Theo thông tin từ Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh, nhà văn Trần Kim Trắc đã qua đời vào ngày 17-11-2018 tại nhà riêng trên đường Cống Lở, phường 15, quận Tân Bình. Tuy nhiên, vì lý do riêng nên gia đình không phát tang; vậy nên công chúng mới được thông báo cách đây hai ngày.
Tác giả Đông Mai kể về tuổi thơ thiếu vắng cha mẹ, đời sống nhọc nhằn trong cuốn "Xuân Quỳnh - một nửa cuộc đời tôi".
Bên cạnh dòng văn học thị trường ăn khách, không ít tác giả trẻ thế hệ 9X đang chọn dấn thân vào mảng đề tài vừa nghe đã khiến người đọc ngần ngại: chiến tranh!
2018 có lẽ là một năm “gặt hái” của văn nghệ Việt Nam trên trường quốc tế. Từ các cuộc thi nhan sắc, đến văn chương công chúng đều chứng kiến những giải thưởng gọi tên Việt Nam. Thậm chí, lĩnh vực xiếc vốn ít được nhắc tới thì anh em Quốc Cơ - Quốc Nghiệp cũng tạo lập những kỷ lục quốc tế và liên tục được truyền thông quốc tế xướng tên…
Sáng 26/12/2018 tại Hà Nội, Hội Nhà văn Hà Nội đã tổ chức buổi tổng kết hoạt động năm, trao giải thưởng văn học 2018 và kết nạp hội viên mới.
Hội đồng cuộc thi sáng tác văn học trẻ lần sáu trao hai giải nhì cho tác phẩm "Wittgenstein của thiên đường đen" và "Người lạ".
Ở vào tuổi xấp xỉ 80, đi qua bao nhiêu dâu bể của đời người, ngỡ tưởng đã không còn điều gì có thể khiến ông muộn phiền, phải rơi nước mắt. Ấy vậy mà trong buổi gặp mặt bạn bè và độc giả nhân dịp ra mắt tác phẩm Vườn chanh miệt biển được tổ chức gần đây tại TPHCM, nhà văn Kiệt Tấn (ảnh) với mái tóc trắng cước, vẫn cười nói và vẫn khóc ngon lành. Xúc cảm vẫn còn đong đầy như thuở ông viết Em điên xõa tóc, Đêm cỏ Tuyết, Người em xóm học…
Chiều 15/12/2018, tại nhà sách Văn Việt (số 4 Đinh Lễ, Hà Nội), Nxb. Văn hóa - Văn nghệ Tp. HCM và nhà thơ Nguyễn Phong Việt đã tổ chức sự kiện giao lưu, kí tặng sách nhân dịp tập thơ Chỉ cần tin mình là duy nhất được xuất bản.
Các biên tập viên của tờ The Times Book Reivew vừa lựa chọn những cuốn sách hư cấu, viễn tưởng hay nhất trong năm 2018.
Nhà xuất bản Kim Đồng vừa ra mắt độc giả bộ ba tác phẩm thuộc thể loại truyện đồ họa: Cô bé ganh tị, Phía sau cánh cửa và Hạ về trên đồi cỏ lau hồng. Đây có thể coi là một thể nghiệm mới của nhà văn, họa sĩ Việt Nam.
Chương trình nghệ thuật “Vừng ơi mở cửa” được ví như cuộc hội ngộ, giao lưu của các thế hệ sinh viên Văn khoa, Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Khoa Văn học - Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) sẽ được tổ chức tối 7-12 tại khuôn viên ký túc xá Mễ Trì - Hà Nội.
Liên tục những tin vui đến với văn chương Việt Nam: nhà văn Nguyễn Ngọc Tư nhận Giải thưởng LiBeraturpreis 2018 do Hiệp hội Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) trao tặng cho tác phẩm Cánh đồng bất tận.