NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Nhân chuyến bay ngang qua Nhật, gặp mùa hoa anh đào, tôi ghé vào Tokyo chơi một ngày. Trong quán ăn sushi thắp đèn lồng, tôi làm quen với một người bạn Nhật. Anh là giảng viên đại học ngành lịch sử, làm thêm nghề hướng dẫn du lịch. Nói chuyện về thiền và thơ haiku, anh kể cho tôi nghe một câu chuyện thú vị. Sau này, mỗi khi nhìn thấy hoa anh đào, tôi đều nhớ anh, mong có dịp trở lại chốn cũ.
Minh họa: Nhím
Trong một ngôi chùa gần Edo, thủ đô xưa của Nhật, có vị thiền sư tên Takashi thích mèo. Khi ông trở thành bậc thầy đạt đạo, có nhiều học trò, mỗi khi lên lớp giảng bài hoặc đi đây đi đó, ông đều mang theo con mèo yêu quý của mình. Trong các buổi tập thiền hàng ngày, lúc nào con mèo cũng được tham dự. Đó là chú mèo có sắc đen tuyền, thông minh, nó biết ngồi im lặng như một thiền sinh, không làm phiền ai. Để làm người thầy hài lòng, mọi người săn sóc, âu yếm nó. Quả thật đó là một chú mèo khôn ngoan, không những biết yên lặng mà còn biết cách làm các điệu bộ giống như một thiền sinh đang tĩnh tọa, thiền định, vuốt râu tập trung giải quyết các công án. Thậm chí hình như nó cũng biết cách làm thơ hợp theo âm luật. Khi con mèo này qua đời, các thiền sư đã quen với sự hiện diện của nó, lấy làm thương nhớ vô cùng, họ liền đi tìm một con khác thay thế. Không có mèo đen, họ thay bằng mèo đốm. Xem ra màu sắc không quan trọng. Lâu dần, sự hiện diện của mèo trong các buổi tập trở thành một nhu cầu cần thiết.
Không có mèo, các thiền sinh đâm ra lẩn thẩn, nói năng có phần thiếu hoạt bát, không khí thiền định bớt trang nhã. Không có công án nào có vẻ trôi chảy, việc tu tập đình trệ. Vì thế sự hiện diện của mèo trở nên cần thiết tuyệt đối. Dần dần mèo nổi tiếng khắp vùng. Các chùa quanh đó cũng bắt chước theo. Nhà sư xứ lạ có dịp đi qua bao giờ cũng tò mò tìm đến ngôi chùa vừa kể để quan sát hành trạng của mèo trong các buổi thiền định, rút kinh nghiệm đem về áp dụng ở chùa mình. Cũng có một vài ngoại lệ không đáng kể, như có một chú mèo bỗng dưng nổi hứng tha chuột vào thiền đường, vờn nó trước mặt các vị tu hành làm cho không khí buổi tập náo động, xem ra hết sức thiếu nghiêm chỉnh. Nhưng nói chung, tác dụng tích cực của sự hiện diện của mèo là điều không thể chối cãi. Một số học giả cho rằng mèo phát ra một loại từ trường đặc biệt có khả năng thu hút các tinh hoa của trái đất, một số cư sĩ thông thái nhất của xã hội Nhật bản, văn hay chữ tốt, đã viết những cuốn sách ca tụng nổi tiếng, ví dụ như cuốn: “Vai trò của mèo trong thiền Nhật Bản”, “Mèo đạo và trà đạo”, “Nguồn gốc của loài người không phải từ khỉ mà là từ mèo” vân vân.
Thiền sư Takashi một hôm qua đời đột ngột, không kịp chỉ định người thay thế. Theo tục lệ thời ấy, triều đình gửi một thiền sư khác từ thủ đô về phụ trách một thời gian trong khi tìm kiếm người kế vị. Đây là vị sư già đắc đạo nổi tiếng bậc nhất của giới tu sĩ Nhật Bản. Ông có tất cả mọi đức tính của bậc tu hành, trừ một khuyết điểm, tuy đối với người bình thường là nhỏ, nhưng với người tu hành có thể lớn, vì nó phần nào ngăn cản ông trên đường trở thành bậc đại giác đại ngộ. Do những kinh nghiệm thời nhỏ, trong đó có việc năm lên bảy tuổi, bị mèo cào rách mặt lúc lẻn vào nhà bếp ăn vụng, mà phân tâm học ngày nay gọi là các chấn thương thơ ấu mang tính vô thức, ông tỏ ra không thích giống động vật ấy chút nào. Ngoài ra mỗi lần đến mùa hoa anh đào nở, ông lại còn bị bệnh viêm họng, viêm mũi, làm ông khổ sở. Bệnh ấy trở nên đặc biệt nặng nếu cùng lúc ông phải tiếp xúc với lông của thú vật. Ngày nay ta biết đó là bệnh dị ứng với các nguyên nhân khác nhau như bụi bặm, phấn hoa, lông súc vật, nước hoa, là những dị ứng nguyên. Vì những lý do kể trên, khi vừa đến trấn nhiệm ngôi chùa, ngay trong lần thuyết giảng đầu tiên, vị thiền sư thông thái này vừa thấy chú mèo lim dim ngồi tư lự trong một góc phòng đã lập tức nhảy một bước từ giữa bồ đoàn, lấy tay nhấc nó lên, trong chớp mắt liệng qua cửa sổ.
Các thiền sư vốn nổi tiếng về sự thô bạo như một hình thức giáo dục và khai mở đốn ngộ; hình như ngày nay các thầy giáo cô giáo của chúng ta cũng thỉnh thoảng đem ra áp dụng. Nhưng xin đừng nghĩ rằng đây là hành động phản đạo lý, bạo lực học đường, vì bị ném qua cửa sổ đối với mèo, cũng như đối với các chú học sinh tiểu học nghịch ngợm, chỉ là bài tập thể dục thông thường. Rất nhiều thiền sinh phản đối vì họ vẫn còn yêu quý mèo và tin rằng nhờ nó mà việc tu tập được tiến bộ. Nhưng vị sư già vẫn cương quyết. Do uy tín lãnh đạo và tài giảng dạy của ông, các lớp tập thiền vẫn đông và ngày càng tiến bộ. Dần dần các thiền sinh cũng quên mất vai trò của mèo trong việc tu tập của họ.
Các ngôi chùa khác bắt đầu bắt chước, thi nhau ném mèo qua cửa sổ. Một vị học giả lừng danh từ Trung Hoa xa xôi đã đến tận nơi nghiên cứu tình hình, viết được một luận án tiến sĩ rất nổi tiếng, được trí thức đương thời ca tụng, lấy tên là: “Tiến lên cõi hạnh phúc không cần đến mèo”.
Từ đó thiền Nhật Bản đánh mất truyền thống dùng mèo làm biểu tượng và phương tiện giác ngộ. Người Nhật chỉ còn lại hai thứ, là thơ hai ku và hoa anh đào, làm niềm tự hào cho đất nước của họ mà thôi.
N.Đ.T
(SDB12/03-14)
VALENTIN HUSSON
Trước hết, ta phải hướng sự chú ý đến động từ “cách ly” khi mà với tư cách là một ngoại động từ, nó có nghĩa là sự vứt bỏ ra khỏi một giới hạn; trong khi với tư cách là một nội động từ, nó hướng đến sự ràng buộc để ở lại trong một vài giới hạn nhất định. Nó vừa nói lên cả sự vứt bỏ lẫn sự rút lui; vừa hiện diện vừa vắng mặt.
HIỀN LÊ
Hiroshi Sugimoto (sinh năm 1948 tại Tokyo) là nhà kiến trúc sư, nhiếp ảnh gia người Nhật.
Palomar là tác phẩm hư cấu cuối cùng của Italo Calvino (1923 - 1985), một trong những nhà văn lớn nhất của Ý ở thế kỉ 20, xuất bản tháng 11 năm 1983.
TRẦN KIÊM ĐOÀN
Nếu bình thường thì giờ nầy chúng tôi đang ở “hộp đêm” trong bụng máy bay Eva trên đường về Quê hương và đang vượt nửa sau Thái Bình Dương.
JEAN-CLET MARTIN
Trong thời điểm cách ly và tự cách ly này, thế giới tái khám phá ra chiều kích mang lại cho nó một phương hướng nhất định.
Slavoj Žižek, nhà triết học người Slovenia, được mệnh danh là “nhà triết học nguy hiểm nhất ở phương Tây” hiện nay. Ông nổi tiếng với tác phẩm Đối tượng trác tuyệt của ý thức hệ (The Sublime Object of Ideology, 1989), ở đó ông đã kết hợp quan niệm duy vật Marxist và phân tâm học Lacan để hướng đến một lý thuyết về ý thức hệ.
MARKUS GABRIEL
Trật tự thế giới bị lung lay. Một loại virus đang lây lan trên quy mô vô hình của vũ trụ mà ta không hề biết được những chiều kích thực sự của nó.
ĐỖ LAI THÚY
M. Bakhtin (1895 - 1975), nhà nghiên cứu văn học Nga - Xô viết có tầm ảnh hưởng bậc nhất ở Việt Nam. Ông là nhà lý luận tiểu thuyết. Người phát hiện/minh ra tiểu thuyết đa âm, tính đối thoại, nguyên tắc thời-không, tính nghịch dị và văn học carnaval hóa…
THÁI THU LAN
Émile Zola là một nhà văn hiện thực lớn nhất đồng thời cũng phức tạp nhất của nước Pháp ở cuối thế kỷ thứ 19, là người sáng lập lý luận về chủ nghĩa tự nhiên, là một tấm gương lao động không mệt mỏi, là một chiến sĩ có tinh thần chiến đấu dũng cảm chống chiến tranh phi nghĩa, chống quyền lực tàn bạo và bênh vực quần chúng lao động nghèo khổ.
NGUYỄN TÚ ANH - TRẦN KỲ PHƯƠNG
Trong nghệ thuật Ấn Độ cũng như nghệ thuật Chàm, hình tượng con chuột luôn mang ý nghĩa tốt đẹp, đó là con chuột nhà hay chuột nhắt (mouse), chứ không phải chuột cống.
ANĐRÂY GOCBUNỐP (Tiến sĩ ngôn ngữ học Liên Xô)
Gần đây đã có những khám phá rất có ý nghĩa ở Washington và London, trong những cuốn sách đã yên nghỉ trên các kệ sách thư viện trong cả bốn thế kỷ nay.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Jen học trước tôi hai năm, đàn chị. Cô là thường trú, PGY- 4, tôi là PGY- 2. Trong nghề chúng tôi, hơn nhau một năm đã là tình thầy trò, huống gì hơn hai.
LƯU TÂM VŨ
hồi ký
LTS : Nhà văn Lưu Tâm Vũ sinh năm 1942, tốt nghiệp sư phạm Bắc Kinh năm 1961, sau đó dạy học nhiều năm ở Bắc Kinh. Truyện ngắn đầu tay Chủ nhiệm lớp đoạt giải thưởng truyện ngắn ưu tú toàn quốc 1978, được coi là tác phẩm mở đầu cho văn học thời kỳ mới.
Cách đây 40 năm khi nhà xuất bản Morrow and Avon chi 5 triệu đô la cho James Clavell, tác giả những cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Hồng Kông ngày ấy, Đại tướng quân, Whirlwind, giới xuất bản ở Mỹ choáng váng. Nhưng bây giờ tiền nhuận bút đã vượt xa kỷ lục ấy.
ALAN BURNS
William Carlos Williams cũng như bất cứ người nào, đến rất gần với việc nhận thức ra lý tưởng mới của chủ nghĩa hình tượng, nhất là trong những bài thơ như “The Great Figure” và “The Red Wheelbarrow”.
Đây là một câu chuyện về di dân được viết theo chương trình “Dự án chiếc giày” (The Shoe Project) được khởi xướng thành lập bởi tiểu thuyết gia Katherine Govier, Toronto, Canada. Chương trình này bao gồm việc giúp các phụ nữ di dân viết một câu chuyện 600 từ về kinh nghiệm di dân của mình và lên một sân khấu nhỏ để trình diễn (đọc) câu chuyện đó trước những khán giả trong vùng. “Dự án chiếc giày” được thực hiện ở Antigonish với sự giúp đỡ của tiểu thuyết gia Anne Simpson và nhà biên kịch Laura Teasdale.
NHƯ QUỲNH DE PRELLE
Tôi đã từng mơ ước về quê nhà để đọc thơ tiếng Việt, để thổn thức cùng thi ca tiếng Việt. Thế mà, ở nơi này, giữa trái tim châu Âu và trong lòng bạn bè quốc tế, tiếng Việt của tôi ngân lên giữa những nhịp điệu, những giọng nói hoàn toàn khác. Và tôi đi đọc thơ, tự bao giờ tôi cũng tự chuyển ngữ những bài thơ của chính mình với bạn đọc ở đây. Đi đọc thơ, bao điều thú vị và những mới mẻ.
HÂN QUY
(Phỏng vấn nhà báo lão thành LÉO FIGUÈRES)
PATRICIA HIGHSMITH
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Một người bạn cũ ở Mỹ kể với tôi rằng gần mười năm nay anh không đi du lịch xa, cũng không về Việt Nam, mặc dù nhớ. Tôi hỏi lý do, anh bảo vì sợ nỗi buồn chán khi phải ngồi trên máy bay mười mấy giờ.