ĐOÀN TRỌNG HUY*
Tố Hữu là nhà cách mạng - nhà thơ.
Cách mạng và thơ ca thống nhất hài hòa trong một con người. Một đời, Tố Hữu đồng thời đi trên Đường Cách Mạng và Đường Thơ. Với Tố Hữu, Đường Thơ và Đường Cách Mạng đồng hành như nhập làm một trong Đại lộ Đất nước, Nhân dân, Dân tộc vĩ đại trên hành trình lịch sử cách mạng.
Đường đời Tố Hữu cùng là sự hòa nhập hai con đường này.
Bác Hồ làm việc với đồng chí Tố Hữu, tháng 4.1960 - Ảnh: internet
1.
Tố Hữu tự mở đường đến với cách mạng.
Trước hết, tuổi non trẻ, tự mở đường trong cuộc sống: con đường học vấn. Ngay từ thuở thiếu niên, nhà nghèo có lúc phải học chậm lại một năm vì gia cảnh, cậu bé vẫn tiếp tục, không chịu bị đứt đoạn, bỏ dở việc học. Học lên, Tố Hữu tham gia Đoàn Thanh niên Dân chủ xuống đường cùng hàng vạn quần chúng đòi dân sinh, dân chủ thời phong trào Mặt trận Bình dân bị cắt học bổng, đuổi ra khỏi nội trú nhưng vẫn học.
Cũng từ đây, anh học sinh nghèo đi làm gia sư ở khu xóm chợ. Chưa vào đời đã phải tự mở đường để sống và học: con đường kiếm sống. Vô hình trung, một thầy giáo còm tìm ra con đường đến với những thân phận tôi đòi, cơ cực, dưới đáy của xã hội thành thị: những thằng nhỏ, con sen, chị vú em, lão đầy tớ và cả những cô gái “bán hoa” trên sông. Vậy là, từ rất trẻ, anh đã tự mở đường để bước vào con đường đời - con đường đầy gian khó, phức tạp, đầy ngổn ngang éo le, ngang trái và cũng đầy bất trắc, hiểm nguy.
Không đủ tiền mua sách, anh đi đọc nhờ ở mấy hiệu sách của các nhà hảo tâm (thực chất là chiến sĩ Cộng sản mới ra tù: Lê Duẩn, Hải Triều…). Thêm một con đường vào một phần kho tàng tri thức thế giới: sách văn chương, sách chính trị… Cũng là sự bắt gặp những tia sáng văn hóa và cách mạng từ các trí tuệ nổi tiếng: Gorki, Astrovski, Barbusse, Marx, Engels… Dần dần với sự dẫn dắt của các bậc đàn anh cách mạng, tiếp nhận trực tiếp ánh sáng “mặt trời chân lý” anh học sinh giác ngộ lý tưởng đi thẳng vào con đường tranh đấu. Không bao lâu bị bắt, bị giam. Nhà tù đế quốc là trường đấu tranh khốc liệt nhất giữa sống và chết, là thử thách dữ dội nhất giữa anh hùng và hèn hạ, là lựa chọn triệt để nhất giữa bản năng và nhân cách.
Khóc là nhục. Rên, hèn. Van, yếu đuối
Và dại khờ là những lũ người câm
(Liên hiệp lại)
Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
Là gươm kề tận cổ, súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa
(Trăng trối)
Số phận đã đưa người Cộng sản trẻ tuổi vào con đường thử lửa quyết liệt nhất. Đến lúc này, anh thanh niên học sinh đã hóa thân kỳ diệu: từ con người cá nhân thành con người xã hội: “Là con của vạn nhà/ là em của vạn kiếp phôi pha….”; là “bạn thuyền”, của “đoàn ta” (Giờ quyết định), là “con khôn của giống nòi”. (Dậy lên thanh niên). Từ ấy dấn thân lên đường. Đường đời là đường cách mạng kiên cường, dũng cảm. Trên đường cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng, Phó chủ tịch thứ Nhất Hội đồng Bộ trưởng.
2.
Tố Hữu ban đầu cũng là người tự mở đường tới/ cho thơ ca. Đó là một nẻo đường dấn bước để nhập vào con đường thơ ca yêu nước, con đường văn học cách mạng. Từ ấy tự khởi đầu đã mang tính luận chiến để tìm ra và xác định con đường thơ ca chân chính. Ba mươi năm chiến đấu vì sự nghiệp độc lập, tự do và thống nhất, Tố Hữu kiên trì sự lựa chọn chính xác như sự lựa chọn của đồng đội dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh: “Nay ở trong thơ nên có thép” (Nhật ký trong tù). Cuộc sống bao giờ cũng cao hơn văn chương: “Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ/ Hơn nghìn trang giấy luận văn chương” (Tiễn đưa). Ấy là chê trách, răn đe loại văn chương đả kích, cơ hội, văn chương chạy theo đuôi cuộc sống. Văn chương, văn hóa chân chính, tiến bộ phải ngời ánh thép như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”(1).
Từ lâu với tư cách “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, văn nghệ”, hơn thế nữa, đóng vai trò Tổng tư lệnh, Tố Hữu đã được tôn vinh là một trong những người mở đường và người dẫn đường. Không chỉ cho hôm qua mà còn cho hôm nay và cả ngày mai, với tư cách người trên đường, người đồng hành với chúng ta, đi tới tương lai. Trên đại lộ cách mạng, con đường văn thơ Tố Hữu đã lựa chọn và cổ súy là con đường chân chính nhất: con đường văn học cách mạng con đường nối tiếp truyền thống, mang bản sắc dân tộc và tiên tiến, hiện đại - con đường của con người văn minh trong thời đại.
3.
Tố Hữu cũng tạo ra một con đường trong thơ: con đường hình tượng. Đời thơ Tố Hữu đã tạo được một hình tượng tuyệt đẹp “con đường”. Rất hiện thực mà cực kỳ lãng mạn. Thực đấy mà cũng ảo đấy. Con đường Tố Hữu thực ra đã xuất hiện từ lâu trong thơ. Đó là một không gian nghệ thuật đặc trưng. Ngay từ đầu, con đường của “Hai đứa con phiêu bạt”… “Trong bụi đường sương gió”, của những số phận đau khổ, oan trái Tương tri trên đường đời. Là con đường của tù đày, uất hận. “Đường sao run tê tái cả hồn thơ” (Lao Bảo). Nhưng sao như thấy được tấm lòng lưu luyến, day dứt, nhân hậu trong Tiếng hát đi đày ấy “Người đi mấy bóng vẩn vơ trên đường”. Nổi bật nhất vẫn là con đường hy vọng: “Đường xa vô hạn, đích vô cùng/ Chân trời lui mãi lan lan rộng/ Hy vọng tràn lên đồng mênh mông (Dưới trưa).
Thời kháng chiến có bài ca Vui bất tuyệt mới: Đó là Đường vui của toàn dân (Nguyễn Tuân). Niềm vui vỡ òa trong khúc ca Ta đi tới hào hùng. Như tan biến đi cái kỷ niệm “xót xa” thời đầu nổ súng. “Ta lại bước đi trên đường đá rát” (Giữa thành phố trụi - 1947). Giờ đây là một tư thế mới trên con đường chiến đấu, con đường lịch sử, con đường khái quát điệp trùng những chặng đường vinh quang từ xương máu: “Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên/ Đường qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên/ Đường Cách Mạng, dài theo kháng chiến”. Con đường tâm hồn xuyên suốt không gian từ Bắc chí Nam vào tận “Thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng” và mở ra một hướng đi dũng cảm mới: “Ta đi tới, trên đường ta bước tiếp”. Là con đường dựng xây hòa bình buổi đầu đầy náo nức trong xao động “biết mấy buồn vui”, trong định hướng như mệnh lệnh trái tim “Đường thống nhất chân ta bước tiếp”. Hiện lên oai hùng là Đường vào thời Ra trận. Và chân lý lịch sử thời đại sáng chói từ Đất nước này, Dân tộc này:
Đường của ta đi, đến mọi người (Đường của ta đi).
Cùng nghĩa ấy: “Đường mòn Hồ Chí Minh là con đường sáng tạo” vừa hiện thực lịch sử, vừa tượng trưng. Con đường chiến lược quân sự cũng là con đường chiến tranh nhân dân, con đường chiến thắng. Đó là con đường Việt Nam máu và hoa.
Lịch sử sang trang “Đường Hồ Chí Minh rộng mở thênh thênh”. Lòng người phấn chấn trong tiếng hát Với Đảng, Mùa xuân như lời thơ Tố Hữu. Để lại kiên cường vượt qua biết bao thử thách, gian truân trên quá trình đổi mới, hội nhập với mục tiêu “Đường lên hạnh phúc” xán lạn.
4.
Nhìn chung lại, trên hết, trước hết và sau cùng, Tố Hữu đã mở được con đường vào lòng người - bạn đọc các thế hệ. Hàng nghìn, hàng vạn gia đình hôm qua, hôm nay đã, đang có và đọc tác phẩm Tố Hữu. Hàng triệu công dân tương lai sẽ còn gặp Tố Hữu trên ghế học đường: Trên những trang giấy học trò/ Tình yêu của ông hồi sinh (Nguyễn Khoa Điềm). Lớp lớp học sinh, sinh viên đã và đang nhận học bổng mang tên Tố Hữu như một tặng phẩm nghĩa cử, món quà tinh thần động viên, khuyến khích học tập vô giá.
Thật vinh dự, đến nay đã có nhiều ngôi trường mang tên Tố Hữu ở xứ Huế - quê hương của nhà thơ. Cũng thật vinh hạnh là nhiều tỉnh, thành tiêu biểu đã có những con đường lớn mang biển tên Tố Hữu. “Trái tim Hà Nội”, trái tim của Tổ quốc, “Thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng” là tình yêu lớn của Tố Hữu. Trong tương lai chắc chắn sẽ có con đường với kích thước và tầm vóc lớn mang tên Tố Hữu. Tuy nhiên, xét cho cùng, đó chỉ là một nghi thức cần thiết của xã hội để vinh danh, tưởng niệm, tri ân một nhà cách mạng: nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn của nhân dân. Có một nghi thức linh thiêng vô hình đã được xác lập một cách tự nguyện, có giá trị cao quý mãi mãi - đó là Con đường Tố Hữu trong tâm tưởng, trong hồn cốt và trong lòng người yêu thơ Việt Nam.
Ở Con đường Tố Hữu thành phố, nhà thơ sẽ luôn luôn hiện diện đêm, ngày, năm, tháng, cần mẫn như người chỉ đường có uy tín. Nơi Con đường Tố Hữu lòng người, nhà thơ có mặt thường xuyên, thân thiết và chân thành như người bạn tâm hồn, người tri âm, tri kỷ, người đồng chí. Cũng là người bạn đường tin cậy trên mỗi bước chân đi tới tương lai.
Đ.T.H
(SH286/12-12)
---------------------------------
* PGS.TS. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
(1) Hồ Chí Minh toàn tập - Chính trị Quốc gia, 1995, Tập 10, trang 59.
NGUYỄN HỒNG TRÂNNữ sĩ Tương Phố tên thật là Đỗ Thị Đàm sinh ngày 14/7/1900, nguyên quán ở xã Bối Khê, tổng Cẩm Khê, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên và mất ngày 8/11/1973 tại Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
TRƯỜNG KÝ(“Nụ cười Áp-xara”: Truyện ký của Hà Khánh Linh, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1983)
PHẠM PHÚ PHONGChính cái bìa tập truyện ngắn là Sứ giả Việt Hùng do hoạ sĩ Đinh Khắc Thịnh trình bày đã gợi ý tưởng cho tôi viết bài này, sau khi đọc đi đọc lại vài lần tập truyện ngắn gồm có chín truyện của Việt Hùng - chín truyện ngắn anh viết trong vòng hơn mười hai năm, kể từ khi tập truyện ngắn đầu tay Cô gái hoàng hôn (1997, cũng gồm có chín truyện ngắn), ra đời cho đến nay.
Ý THIỆNVào ngày 27, 28 tháng 7 năm 2001, tại chùa Từ Đàm - Huế đã diễn ra Lễ kỷ niệm 50 năm ngày Gia đình Phật Hoá Phổ - tổ chức tiền thân của Gia Đình Phật tử Việt Nam, với hơn 3000 đoàn sinh về tham dự. Sự kiện này đã thu hút sự chú ý của nhiều tầng lớp nhân dân thành phố Huế cũng như phật tử khắp nơi trên đất nước.
NGUYỄN ĐỨC TÙNGNguyễn Đức Tùng: Chào nhà thơ và cô giáo dạy văn Đinh Thị Như Thúy. Được biết chị đang sống và làm việc ở một huyện thuộc tỉnh Đắc Lắc. Chị có tìm thấy cho mình một quê hương ở đó không?
ĐINH XUÂN LÂM - VÕ VĂN SẠCHTrong khi khai thác tư liệu về phong trào đấu tranh yêu nước chống xâm lược Pháp hồi cuối thế kỷ XIX của nhân dân ta tại Cục lưu trữ Trung ương, chúng tôi có tìm được hai bài thơ nôm của vua Hàm Nghi ban cho các quân thứ Bắc kỳ.
HỒ THẾ HÀKỷ niệm 8 năm ngày mất nhà thơ Tố Hữu (9-12-2002 - 9-12-2010)
NGUYỄN NHÃ TIÊNTừ buổi trình làng tập thơ “Bông hồng ngủ quên”, tiếp theo là tập “Nhặt mùi hương trầm đâu đây”, cho đến bây giờ thi phẩm thứ ba của Võ Kim Ngân “Viết lúc sang mùa” vừa mới được Nxb Văn học cấp phép ấn hành tháng 7-2010.
THANH THẢO(Đọc “Bán đảo” của Thái Bá Lợi)
TRẦN HUYỀN TRÂNNgày 10 - 10, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế và Công ty Văn hóa Phương Nam đã tổ chức buổi tọa đàm về tiểu thuyết Biết đâu địa ngục thiên đường của nhà văn Nguyễn Khắc Phê. Buổi tọa đàm đã thu hút sự quan tâm sâu sắc của các nhà văn, nhà nghiên cứu và đông đảo sinh viên các trường đại học.
KIM QUYÊNSau tập thơ Ngày đầu tiên(*), nhà văn Trần Hữu Lục tiếp tục ra mắt bạn đọc tập Góc nhìn văn chương(**) và anh sẽ xuất bản tập truyện ngắn Trần Hữu Lục (tuyển chọn năm 2010). Thật là một mùa bội thu với nhà văn Trần Hữu Lục.
HỒNG DIỆU(Nhân đọc Trái tim sinh nở và Bài thơ không năm tháng *)
MAI VĂN HOANTôi cố hình dung những tháng ngày nhà văn Hồng Nhu trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh từng gắn bó đã hơn hai mươi năm với bao kỷ niệm vui buồn.
KHẢI PHONG“Thơ kỵ nhất viết điều người đã viết! Nhưng biết sao, khi tôi mến sông Cầu…Lòng khẽ nhắc: đừng nói điều đã viết,Sao âm vang cứ mãi gọi: sông Cầu”
(Về cuộc thi truyện ngắn dành cho sinh viên Huế do Sông Hương tổ chức)BAN TỔ CHỨC CUỘC THINhằm tạo không khí sáng tác, phát hiện các cây bút trẻ Huế, trong khuôn khổ Chương trình Phát triển Tài năng Trẻ, Tạp chí Sông Hương tổ chức Cuộc thi truyện ngắn dành cho sinh viên đang theo học các trường đại học và cao đẳng ở Huế.
LÊ HUỆCuộc thi Truyện ngắn cho sinh viên Huế do tạp chí Sông Hương tổ chức đã thu hút được sự tham gia của rất nhiều các bạn trẻ mang trong mình khát vọng văn chương. Những truyện ngắn dự thi đã cho ta thấy được một vóc dáng mới của các cây bút trẻ Huế hiện nay: phản ánh cuộc sống đương đại từ nhiều góc cạnh bằng bút pháp tinh tế, mới mẻ, giàu trí tuệ và đầy chất thơ. Mười lăm truyện ngắn xuất sắc lọt vào chung khảo đã được tập hợp lại thành ấn phẩm mang tên “Yêu xa xa một phút”.
PHAN MINH NGỌC“Bài thơ về biển khơi” (*) là tập sáng tác đầu tay của cây bút nữ Trần Thùy Mai.
NGÔ HƯƠNG GIANGLàm thế nào để diễn giải hợp lý về Tường Thành?
KHẢI PHONGTôi đã có dịp gặp những trang thơ chân chất của Nguyễn Quang Hà trong “Tiếng gà trên đỉnh chốt”(1). Lần này gặp văn Nguyễn Quang Hà trong “Mùa xương rồng nở hoa” (2), cảm tưởng lưu lại trong tôi là văn anh gây được ấn tượng mạnh hơn thơ.
NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.